CHƯƠNG MỞ ĐẦU
1. Khái niệm
2.
Mục đích
3.
Sự phát triển của hệ thống nuôi
kết hợp
4.
Đặc điểm của hệ thống
sản xuất kết hợp của các nước Châu
Á
5. Làm thế nào để nuôi
thủy sản trong hệ thống sản xuất nông
nghiệp kết hợp
6. Chọn loài cá thả nuôi trong
mô hình kết hợp
7. Năng suất cá nuôi trong
mô hình nuôi thủy sản kết hợp
Nuôi thủy sản kết hợp là
một hệ thống nuôi bán thâm canh, trong đó nguồn
tài nguyên tự nhiên được sử dụng và tái
sử dụng để sản xuất ra những sản
phẩm có giá trị cao hơn, hiệu quả hơn
nhờ kết hợp những hệ thống sản
xuất riêng rẽ.
Từ “nuôi kết hợp – integrated”
từ động từ Latinh là “ integrate” có nghĩa là liên
kết, kết hợp các phần, các hệ thống riêng
rẽ làm thành một hợp phần sản xuất toàn
vẹn.
Hệ thống sản xuất rau màu,
lúa, chăn nuôi gia súc gia cầm và nuôi cá độc lập
nhau trong một hệ thống sản xuất nông
nghiệp và sản phẩm từ những hệ thống
này được gom chung lại. Tuy nhiên, sản phẩm
từ một hệ thống có thể trở thành nguyên
liệu đầu tư cho hệ thống khác nhằm làm
tăng giá trị của sản phẩm sản xuất
được từ nguồn tài nguyên cố định
là đất, nước của nông trại. Một
hệ thống kết hợp như thế sẽ mang
lại hiệu quả cao hơn so với hiệu quả
của từng hệ thống riêng rẽ cộng lại.
Cơ sở sinh học chính của
một hệ thống nuôi kết hợp là tái sử
dụng sản phẩm phụ; tuy nhiên tận dụng
diện tích, không gian, trong đó hai hệ thống sử
dụng cùng mộ diện tích hay tất cả khoảng
không gian cần thiết chỉ cho một hệ thống
sản xuất là một cách quan trọng để làm
tăng năng suất. Một thuận lợi lớn
về kinh tế xã hội của hệ thống sản
xuất kết hợp là khuynh hướng sử dụng
các nguyên vật liệu sẵn có từ nông trại. Hệ
thống sản xuất kết hợp cũng hạn
chế được rủi ro do sản phẩm làm ra
được đa dạng hoá. Nó giúp cân bằng dinh
dưỡng nếu sản xuất, nhằm cung cấp
thực phẩm cho nông hộ.
Mục đích chính của hệ
thống nuôi thủy sản kết hợp là thiết
lập một hệ thống thích nghi cao với nguồn
tài nguyên, những nguồn vật liệu rẻ tiền
để đầu tư cho hệ thống nuôi và sản
xuất ra những loại sản phẩm có giá trị và
hiệu quả cao.
Săn bắn, hái lượm và đánh
bắt cá có trước khi phát triển nông nghiệp,
nhưng nó vẫn còn quan trọng đối với
những nước đang phát triển hiện nay,
nhất là đánh bắt cá vẫn chiếm vị trí
đáng kể trong sản lượng thủy sản.
Chuyển sang giai đoạn con người biết nuôi trồng ở vùng đất mới phì nhiêu, chủ yếu ở vùng núi cao. Thời kỳ này, chưa có nuôi thủy sản kết hợp do các hoạt động sản xuất nông nghiệp thực hiện ở vùng núi, cao nguyên nên diện tích mặt nước hạn chế và khó đào ao. Ở vùng nhiệt đới, trồng rau là chủ yếu gồm khoai sọ, khoai mì, khoa lang, dong và hái lượm chuối, dừa. Heo và gia cầm được nuôi để tận dụng thực phẩm dư thừa. Trồng rau màu thực sự phát triển vào năm 3500 năm trước công nguyên nhờ giống nông nghiệp dựa vào trồng lúa nước, gia súc nuôi để lấy sức kéo. Nó tồn tại ở vùng xa và trong vườn tạp.
Khi dân số tăng và tiến
đến tiền công nghiệp, phần lớn
đất đai được sử dụng để
sản xuất lương thực, gia súc nuôi để
lấy sức kéo, heo, gia cầm thả lang là nguồn cung
cấp thực phẩm cho nông hộ. Hệ thống
sản xuất này gọi là ổn định sản
xuất nông nghiệp giai đoạn (sản xuất rau màu
chiếm ưu thế). Hầu hết nông nghiệp của
các nước Tây Âu trong giai đoạn này cho đến
năm 1850. Mùa vụ chính là ngũ cốc và độ phì
nhiêu của đất được duy trì bằng 2 hay 3
hệ thống đồng ruộng khác trong đó
đất để trống mỗi năm sau thu hoạch để đất nghỉ.
Chưa có sự kết hợp giữa các hệ thống
sản xuất với nhau bởi vì gia cầm thả rong
và đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp sức
kéo. Hầu hết dân du mục sống ở những vùng
khôn cằn và vùng lân cận đó nơi chỉ có
đồng cỏ do nước được trữ
lại và nuôi thủy sản có rất ít tiềm năng. Có
hai xu hướng giữa năm 1300 – 1800 dẫn
đến sự phát triển “trang trại trồng
trọt và chăn nuôi kết hợp” ở các nước
Tây Âu và Đông Mỹ từ
1850 - 1945: 1. giảm dần và cuối cùng không bỏ
đất trống; 2. trồng trọt ở thảo
nguyên, luân canh mùa vụ để cung cấp thức ăn
cho gia súc. Cây họ đậu có khả năng cố
định đạm được trồng xen với
cỏ giúp đất giữ độ màu mỡ không khác
khi cho đất nghỉ có vụ trồng ngũ cốc
tiếp theo. Tầm quan trọng của gia súc dần
dần tăng lên ở cuối thế kỷ XIX do cách
mạng trong công nghiệp và nhu cầu về thục
phẩm là gia súc ngày càng tăng. hệ thống sản
xuất này gọi là ổn định sản xuất nông
nghiệp giai đoạn 2 (sản xuất kết hợp
mùa màng và chăn nuôi gia súc)
Mặc dù sản xuất nông nghiệp có
lịch sử phát triển ít nhất là 10.000 năm, thay
đổi kỹ thuật chậm cho đến giữa
thế kỷ XIX. Nông nghiệp ở các nước Tây Âu
tiến bộ rõ rệt, càng thâm canh từ năm 1850
bằng cách sử dụng giống tốt hơn, nhiều
phân bón hơn và cơ giới hoá. Mặc dù xu hướng
ổn định nông nghiệp giai đoạn 3
(độc canh) bắt đầu từ 1850, nó chỉ
bắt đầu sau chiến tranh thế giới lần
thứ hai, nông trại sản xuất kết hợp
truyền thống giữa rau màu và chăn nuôi gia súc và
đa dạng hoá sản phẩm được thay thế
bằng chuyên môn hoá. Cuộc cách mạng trên lĩnh vực
sản xuất nông nghiệp ở phương Tây diễn
ra rộng lớn do các nguyên liệu từ công nghiệp, áp
dụng những thành tựu khoa học, kỹ thuật làm
sản xuất nông nghiệp không lệ thuộc vào
điều kiện tự nhiên. Nhiều lĩnh vực
chuyển sang độc canh nhở kỹ thuật nông
nghiệp hiện đại như cải thiện
giống, phân vô cơ, thuốc trừ sâu, thuốc diệt
cỏ, cơ giới hoá, thức ăn đặm
đặc, thức ăn viên và thuốc phòng trị
bệnh. Vì thế các trang trại thường ít sản
xuất kết hợp mà chỉ sản xuất ra một
sản phẩm duy nhất. Kinh tế nông trại hiện
đại làm cho trại sản xuất kết hợp
không cần thiết nữa ở các nước
phương Tây, nhưng càng thâm canh hoá thì ảnh
hưởng bất lợi đến môi trường càng
nhiều.
Hình 1: Sơ đồ các giai đoạn
phát triển hệ thống sản xuất
Nuôi thủy sản
ở các nước phương Tây và Nhật Bản
cũng theo công nghiệp thâm canh bởi vì nuôi đơn
một loài cho ăn thức ăn công nghiệp và hệ thống
nuôi được trợ giúp bởi máy móc. Hệ thống
nuôi thủy sản kết hợp dựa vào điều
kiện khí hậu, loại nước cấp, nguồn
nước cấp và diện tích trang trại. Tiềm
năng lớn nhất cho nuôi thủy sản kết
hợp với các hoạt động sản xuất nông
nghiệp chủ yếu tập trung ở vùng nước
ngọt do trồng trọt và chăn nuôi tập trung ở
vùng nước ngọt hơn là ở vùng nước
lợ, mặn.
Nuôi thủy sản có tiềm năng lớn ở vùng đất có nguồn nước cung cấp cho hoạt động sản xuất nông nghiệp, đặc biệt mô hình nuôi kết hợp rất thành công ở vùng đất sử dụng nguồn nước mưa cho hoạt động nuôi thủy sản. Ao nuôi cá là nơi trữ nước cho hoạt động sản xuất nông nghiệp khác của nông trại như cung cấp nước uống cho gia súc gia cầm, cấp nước tưới cho lúa, rau màu. Những nông trại qui mô nhỏ (diện tích nhỏ hơn 1 ha ở vùng nhiệt đới mưa nhiều và khoảng 1.000 ha đối với những trại nuôi gia súc vùng khí hậu bán khô hạn thích hợp cho việc sản xuất kết hợp. Nông trại qui mô nhỏ bao gồm từng nông hộ hay một nhóm cùng hợp tác sản xuất. Hệ thống sản xuất kết hợp không tạo thêm cơ hội việc làm cho người lao động trong vùng. Tuy nhiên lượng sản phẩm sản xuất ra từ nông hộ đa dạng hơn nên tạo nhiều lao động hơn trong chế biến thực phẩm và trên thị trường.
4. Đặc điểm của hệ thống sản xuất kết hợp của các nước Châu Á |
Hệ
thống sản xuất kết hợp giữa thủy
sản và sản xuất nông nghiệp ở Châu Á
được biết nhiều hơn ở Châu Phi. Hệ
thống kết hợp giữa trồng trọt – chăn
nuôi và thủy sản ở Châu Á phát triển mạnh và nó
cũng phát triển tương tự như ở Châu Phi.
Một chủ nông hộ ở Châu Á thường có 1
vợ và 4 con sống trên diện tích khoảng 0,5 ha và
chủ yếu sống bằng nghề làm lúa. Họ nuôi 1 –
2 con trâu hay bò và vài chục con gà, vịt. Hầu hết gia
súc ở các nước Đông Nam Á nuôi ở qui mô nhỏ
dạng nông hộ hơn là các trang trại qui mô công
nghiệp. Trâu bò chủ yếu nuôi để cung cấp
sức kéo và lấy thịt khi nó không làm việc
được nữa. Trong thời gian canh tác lúa, trâu bò
chủ yếu ăn cỏ khô, sau khi thu hoạch lúa, nó
ăn rơm khô, đây là những loại thức ăn kém
chất lượng. Nuôi cá thời gian này chưa phổ
biến các nước Châu Á. Nông dân chủ yếu là
bẫy bắt cá tự nhiên trong ruộng lúa hoặc nuôi
theo kiểu quảng canh, thả cá chép Ấn Độ
trong ruộng và cá ăn thức ăn tự nhiên. Trung
Quốc là quốc gia dẫn đầu trong việc áp
dụng kỹ thuật nuôi cá mô hình sản xuất kết
hợp, tiếp theo là Malaysia, Singapore, Thailand và Indonesia.
Những thập niên gần đây, hệ thống sản
xuất kết hợp trồng trọt, chăn nuôi và
thủy sản tăng đáng kể, tuy nhiên vẫn
dưới 1% nông hộ trong vùng Châu Á nhiệt đới
áp dụng.
Người Trung Quốc ở Malaysia và
ở nhiều nơi khác trồng trọt và chăn nuôi và cả
nuôi thủy sản theo mức độ thâm canh dần.
Nông dân Trung Quốc nuôi chủ yếu là heo trong mô hình nuôi
kết hợp. Thức ăn cho heo chủ yếu là khoai mì
và phụ phẩm từ nông nghiệp như rau cải
loại đi, tấm cám và phân heo làm nguồn phân bón cho cây
trồng và ao cá. Tuy nhiên hầu hết các nông hộ với
diện tích nhỏ ở Châu Á chủ yếu sống
bằng nghề làm lúa là chính, không kết hợp sản
xuất với chăn nuôi hay thủy sản.
5. Làm thế nào để nuôi thủy sản trong hệ thống sản xuất nông nghiệp kết hợp |
Nuôi
thủy sản kết hợp có thể được phát
triển từ hệ thống sản xuất nông
nghiệp sẵn có theo các cách sau
v
Đưa mô hình
nuôi thủy sản vào các nông hộ chưa có nuôi thủy
sản
·
Hộ chăn nuôi
đào thêm ao nuôi cá ở gần hoặc bên dưới
chuồng nuôi gia cầm. Phân gia súc, gia cầm và thức
ăn rơi, thừa làm nguồn thức ăn và phân bón cho
ao cá. Nước từ ao cá làm nguồn nước
uống, nước rửa chuồng trong chăn nuôi. Theo
mô hình này thì sản phẩm từ ao chỉ là sản
phẩm phụ.
·
Hộ làm
vườn: tận dụng kênh dẫn nước
tưới cây sẵn có để nuôi thủy sản.
Phụ phế phẩm từ vườn là nguồn
thức ăn bổ sung cho cá.
v
Nuôi thêm gia súc, gia
cầm vào trại các đang nuôi thủy sản: phân và
thức ăn dư thừa từ chăn nuôi là nguồn
phân bón và thức ăn bổ sung cho ao cá. Cá tạp và thực
vật thủy sinh làm thức ăn trong chăn nuôi.
·
Đối với
những nông hộ qui mô nhỏ, sản phẩm làm ra
chủ yếu để tiêu thụ trong nông hộ thì
đưa cá vào nuôi trong mô hình sản xuất kết
hợp còn có ý nghĩa quan trọng trong việc sản
xuất ra nguồn protein và làm đa dạng hoá sản
phẩm làm ra. Nông hộ sản xuất kết hợp
cần bố trí hợp lý diện tích đất sử
dụng cho chuồng, ao... tùy vào khả năng đầu
tư của nông hộ.
|
Loài cá thả nuôi phải sử dụng
hiệu quả nguồn thức ăn sẵn có trong ao
gồm thực vật mềm, thủy sinh vật
được tạo ra do nguồn chất dinh
dưỡng từ phân gia súc gia cầm hoặc phụ
phế phẩm từ trồng trọt. Đối
tượng cá thả nuôi trong mô hình sản xuất
thủy sản kết hợp thường là loài cá có tính
ăn thực vật và ăn tạp.
Nuôi đơn (monoculture - nuôi một loài
duy nhất) thường rất hạn chế trong mô hình
nuôi kết hợp trừ khi nguồn thức ăn bổ
sung được chủ động cung cấp cho ao nuôi.
Nuôi đơn đầu tư và mang lợi nhuận
nhiều hơn trong hệ thống nuôi thủy sản thâm
canh và loài cá nuôi có giá trị thương phẩm cao, có
thị trường tiêu thụ như mô hình nuôi kết
hợp cá trê lai, cá tra, cá rô phi... Những loài cá này
thường được nuôi đơn trong mô hình nuôi
kết hợp.
Nuôi ghép (polyculture – nuôi từ hai loài cá
trở lên trong cùng một thủy vực) phổ biến
hơn và thích hợp cho nuôi kết hợp. Các loài cá tận
dụng một cách hiệu quả mọi tầng
nước và thức ăn sẵn có trong thủy vực.
Nuôi ghép các loài cá chép ở Trung Quốc như nuôi cá mè
trắng (ăn thực vật nổi), cá trắm cỏ
(ăn thực vật bậc cao thủy sinh), cá mè hoa
(ăn động vật nổi) và cá chép (ăn
động vật đáy).
Có khoảng 31 loài cá thường
được nuôi trong hệ thống nuôi thủy sản
kết hợp trong vùng nhiệt đới gồm: cá mè
trắng, cá rô phi, cá trôi trắng, cá trôi đen, cá mè hoa, cá mè
vinh, cá he, cá tai tượng, cá chép, cá tra, cá sặc rằn,
cá hường, cá tai tượng, cá trắm cỏ, cá
măng, cá trê,...
Sự lựa chọn loài cá thả nuôi
trong mô hình nuôi thủy sản kết hợp tùy thuộc vào
nguồn cá giống sẵn có ở địa
phương, tốc độ tăng trưởng của
cá, sự lựa chọn của người nuôi và
người tiêu dùng... Nuôi cá để bán ra thị
trường thì nhu cầu của thị trường và
giá cá là yếu tố quan trọng ảnh hưởng
đến cơ cấu loài cá thả nuôi trong mô hình.
TOP |
Nuôi
cá trong mô hình kết hợp thường áp dụng hình
thức nuôi bán thâm canh. Thức ăn cho cá từ nguồn
phụ phế phẩm từ chăn nuôi hay trồng
trọt. Cá có thể sử dụng trực tiếp
nguồn phân gia súc, gia cầm hay sử dụng gián tiếp
thông qua nguồn thức ăn tự nhiên. Tuỳ thuộc
chất lượng phân chuồng cấp cho ao và khả
năng bổ sung thức ăn của từng nông hộ
mà năng suất cá nuôi biến động. Năng
suất cá nuôi trong mô hình nuôi kết hợp cá – heo hay
vịt dao động từ 3 - 8 tấn/ha/năm, năng
suất cá đạt cao nhất là 10 – 12 tấn/ha/năm
từ kết quả thí nghiệm cũng như thực
tiễn sản xuất.
Hình 3. Mối quan
hệ giữa mật độ cá thả và năng
suất cá nuôi ở các mức độ đầu tư
thức ăn nhau (Van der Lingen, 1959)
Thức ăn tự nhiên |
Phân chuồng chất lượng kém, thực vật mềm |
Phân chuồng chất lượng cao |
Phân chuồng chất lượng cao, thức ăn viên, quạt nước |
Thức ăn viên, quạt nước, hệ thống tuần hoàn |
Thức ăn viên, nước chảy |
Hình 4. Năng
suất cá nuôi ở các hình thức, qui mô nuôi khác nhau (Edwards, 1988)