CHƯƠNG 1
MÔ HÌNH SẢN XUẤT KẾT
HỢP CÁ – LÚA
I.
CƠ SỞ CỦA SỰ KẾT HỢP LÚA – CÁ
II. ĐẶC
ĐIỂM SINH HỌC MỘT SỐ LOÀI CÁ NUÔI RUỘNG PHỔ
BIẾN HIỆN NAY
III. THIẾT
KẾ MÔ HÌNH CÁ – LÚA
IV. CÁC MÔ HÌNH NUÔI
CÁ TRÊN RUỘNG
V. CÁC BIỆN PHÁP
KỸ THUẬT CHO MÔ HÌNH LÚA – CÁ
8. Thu hoạch
9. Một số lưu ý trong phòng bệnh
cho cá nuôi
I. CƠ SỞ CỦA SỰ KẾT HỢP LÚA – CÁ
Nghiên
cứu của FAO (2000) cho rằng: Trên thế giới nghề
nuôi thủy sản, đặc biệt là mô hình nuôi kết
hợp lúa - cá ở môi trường nước ngọt
ngày càng được đầu tư nghiên cứu, phát
triển, thể hiện ở nhiều nước vùng
Đông Nam Châu Á như: China, Việt Nam, Thailand, Indonesia,
Malaysia, Bangladesh, India, Philippines, Korea và Cambodia (Cruz et al., 1992). Trong điều
kiện Việt Nam và đặc biệt ở vùng
Đồng Bằng Sông Cửu Long, mô hình trồng lúa
kết hợp nuôi cá đã được đầu tư
nghiên cứu, khai thác và phát triển từ lâu (Tuấn, Tâm, 1993; Chiếm, 1994; Chi, 1997; Xuân và
Đương, 1998) và năng suất sản phẩm cùng
hiệu quả của mô hình nuôi đã được
khẳng định, góp phần cải thiện cuộc
sống cho người dân ở vùng nông thôn (Xuân, 1994; Sánh,
1994; Chiếm, 1994). Nedeco (1993); Xuân và Shigeo Matsui
(1998) cho rằng, nếu các đây 10 năm, có khoảng 20 -
30 % nông hộ tham gia sản xuất với mô hình kết
hợp thì hiện nay, tỉ lệ nầy ở vùng
Đồng Bằng Sông Cửu Long đã là 70 - 80 %. Theo
kết quả khảo sát của WES, 1997 trong nhiều
yếu tố ảnh hưởng đến năng
suất, sản lượng và tính hiệu quả của
mô hình nuôi, thì mật độ cá thả nuôi thường
cao, dao động từ 1.8 - 4,8 con/m2 là yếu
tố chính ảnh hưởng đến sự giảm
thấp và biến động về năng suất cá nuôi
trong mô hình: 99 - 730 kg/ha (Chí, 1997; Đương và Rothuis, 1998
và Sinh và ctv, 1997 - 2000).
Hình 1: Mô hình trồng lúa
kết hợp nuôi cá
1. Tăng thêm
thu nhập góp phần cải thiện đời sống
nông dân
Ở ĐBSCL có hàng triệu ha
ruộng cấy lúa có thể nuôi cá kết hợp được.
Trên thực tế số ruộng có thả cá nuôi rất
ít. Phần lớn các ruộng nông dân chỉ lợi
dụng vào theo cá tự nhiên sau mỗi mùa thu hoạch.
Nếu mỗi người đều phải hiểu
biết về lợi ích kinh tế và kỹ thuật thì tôm
cá nuôi ở ruộng sẽ tăng thêm thu nhập, cải
thiện đời sống cho người dân.
2. Nuôi cá có
kết hợp cấy lúa, năng suất lúa sẽ cao hơn
so với ruộng không nuôi cá
Khi nuôi cá ở ruộng lúa, cá
sục bùn tìm mồi ở đáy ruộng diệt cỏ
dại, côn trùng, sâu bệnh hại lúa, đồng thời
phân cá thải ra làm đất giàu dinh dưỡng. Vì
vậy năng suất lúa sẽ tăng.
3. Khả
năng tiêu diệt sâu rầy của cá
Ở ruộng nuôi cá kết
hợp với cấy lúa, người ta rất hạn
chế sử dụng thuốc trừ sâu, nên giảm được
công lao động và hạ giá thành sản phẩm.
4. Tăng thêm
thức ăn cho cá
Trồng lúa có trục xạ
đất, bón phân làm tăng thêm thức ăn cho cá,
đồng thời lúa rụng củng làm thức ăn
tốt cho cá. Vì vậy cá nuôi ở ruộng chủ yếu
dựa và thức ăn tự nhiên, nên ít đầu tư
thức ăn
Mối tương quan của mô
hình
-
Hạn
chế côn trùng hại lúa, cỏ dại, ốc, các bệnh
về lúa do cá tận dụng được nguồn thức ăn sẳn có
trên đồng ruộng
-
Giảm
việc sử dụng phân bón thuốc trừ sâu
độc hại cho con người và môi trường.
-
Tiết
kiệm được lượng giống, phân bón….
-
Tận
dụng được thời gian nhàn rổi của bà con
nông dân trong vụ lúa và thời gian nước lũ dâng
lên.
II. ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC MỘT SỐ LOÀI CÁ NUÔI RUỘNG PHỔ BIẾN HIỆN NAY |
1. Cá mè vinh (Barbodes gonionotus)
Cá mè
vinh là loài cá ăn tạp, thức ăn của chúng bao
gồm thực vật thủy sinh (rau muống, bèo,
rong,...), côn trùng, ngoài ra cá cũng ăn thức ăn
chế biến.
Cá tăng trưởng tương
đối nhanh, sau 6 - 8 nuôi đạt trọng lượng
bình quân 0,3 kg/con.
Hình 2: Cá mè vinh (Barbodes gonionotus)
2. Cá sặc rằn (Trichogaster pectoralis)
Cá
sặc rằn là loài cá thích sống nơi môi trường
nước tỉnh (ao, hồ, ruộng lúa, rừng tràm...),
chúng có thể sống trong nước lợ.
Do có cơ quan hô hấp khí trời nên cá có
thể sống được ở thủy vực có hàm lượng
oxy thấp. Nhiệt độ thích hợp cho cá phát triển từ 28 - 320C,
pH từ 6 - 8.
Cá ăn tạp nhưng thiêng về
thực vật. Trong điều kiện nuôi ruộng,
mật độ thả 1 - 2 con/4 m2 có bổ sung
thức ăn tinh, cá đạt trọng lượng 80 -
100 g sau 6 tháng nuôi.
Hình 3: Cá Sặc rằn (Trichogaster
pectoralis)
3. Cá rô phi (Oreochromis
sp)
Hình 4: Cá rô phi (Oreochromis sp)
Cá rô
phi là loài cá đặc trưng vùng nhiệt đới. Các
yếu tố môi trường thích hợp cho sự sinh trưởng
và phát triển cá rô phi: nhiệt độ 24 - 320C,
pH 6 - 8,5. Cá rô phi là loài rộng muối, cá sống trong nước
ngọt, lợ và mặn (32‰). Cá tăng trưởng khá,
sau 8 tháng nuôi, cá đạt trọng lượng bình quân 300
- 400 g/con.
4. Cá chép (Cyprinus carpio)
Hình 5: Cá chép (Cyprinus
carpio)
Cá chép phân bố rộng, cá sống chủ
yếu trong nước ngọt. Nhiệt độ thích
hợp cho cá chép phát triển từ 22 - 320C, pH 7 - 8.
Cá sống tầng đáy là
chủ yếu, thức ăn của chúng bao gồm các sinh
vật đáy (nhuyễn thể, ấu trùng côn trùng,
thực vật thủy sinh...). Cá ăn được
thức ăn chế biến (cám, tấm, bột ngũ
cốc, cá tạp, phế phụ phẩm nhà bếp...)
5. Cá hường (Helostoma temmincki)
Hình 6: Cá hường (Helostoma
temmincki)
Cá
sống tầng nước giữa và tầng mặt, phân
bố ở các thủy vực nước tỉnh.
Nhiệt độ thích hợp cho cá phát triển từ 26 -
320C, pH 6 - 8.
Cá có cơ quan hô hấp khí trời nên có
thể sống trong môi trường thiếu oxy.
Cá
ăn thực vật là chính; cá tăng trưởng chậm,
sau 8 tháng nuôi cá đạt trọng lượng bình quân 80
g/con.
6. Cá tai tượng (Osphronmus
gouramy)
Hình 7: Cá tai tượng (Osphronmus
gouramy)
Cá
tai tượng là loài cá đặc trưng của vùng
nhiệt đới. Cá có cơ quan hô hấp khí trời nên
có thể sống được trong điều kiện
thiếu oxy. Cá có thể chịu được pH = 4, phát
triển tốt ở pH 6 - 8, sống được ở
nồng độ muối đến 8 ‰. Cá tăng trưởng
nhanh trong khoảng nhiệt độ từ 26 - 320C,
ở nhiệt độ thấp cá lớn chậm và thường
hay bị bệnh.
Cá
tai tượng là loài cá ăn tạp thiên về thực
vật. Giai đoạn nhỏ cá ăn động vật
phù du, côn trùng; khi lớn cá ăn thực vật là chính.
Cá
tai tượng là loài có kích thước lớn, tuy nhiên
tốc độ sinh trưởng tương đối
chậm, trong điều kiện ao nuôi sau một năm cá đạt
trọng lượng từ 0,6 -1 kg/con.
Khi
chọn địa điểm để nuôi cá cần lưu
ý một số yếu tố sau
-
Nguồn nước: vấn đề quan
trọng hàng đầu trong nuôi cá là phải đảm
bảo nguồn nước tốt và cấp tiêu chủ động.
Một điều cần lưu ý khi chọn điểm
nuôi cá là phải biết được sự biến động
của nguồn nước theo mùa và theo năm, đặc
điểm khí tượng thuỷ văn của vùng để
có thể dự đoán và ngăn chặn thất thoát cá
nuôi trong mùa lũ hoặc mùa mưa bão.
-
Chọn đất có cơ cấu chất đất
phải giữ được nước và ít bị
nhiễm phèn.
-
Lịch thời vụ sản xuất nông
nghiệp của vùng để biết được
mức độ ô nhiễm hiện tại và tiềm tàng
do sử dụng nông dược. Những nơi sử
dụng nhiều nông dược nhất là thuốc trừ
sâu có tính lưu dẫn cao và thời gian phân hủy kéo dài
sẽ làm ảnh hưởng đến cá nuôi. Khu vực
nuôi cá nếu tiếp giáp với khu sản xuất màu
sẽ có nguy cơ bị nhiễm độc nông dược
do phun xịt hay khi cấp nước vào khu nuôi cá.
-
Tiện đi lại và chăm sóc quản
lý.
Diện tích
ruộng khoảng 0,3 - 2 ha tùy theo điều kiện cụ
thể
Có thể thiết
kế theo nhiều dạng như: dạng mương
chữ L, dạng mương trung tâm, dạng mương xương
cá …
Trong mô hình này
để tiện lợi và đạt hiệu quả cao
nên chọn dạng mương bao và ao trữ.
a.
Bờ bao quanh
Bờ bao quanh được
đắp với diện tích như sau:
-
Chiều
rộng mặt bờ 1- 2 m
-
Chiều
rộng chân bờ 2 - 4 m
-
Chiều
cao bờ phải cao hơn mực nước cao nhất
trong năm 20 cm
Tác
dụng của bờ bao quanh
-
Giữ
không cho cá ra ngoài
-
Giữ
nước không bị rò rĩ
-
Để
sử dụng hiệu quả diện tích đất
sản xuất, bờ bao có thể trồng dưa, khổ
qua, bí, mướp, ớt để tăng thu nhập
-
Có
thể đi lại trên bờ để chăm sóc,
quản lí ruộng.
b. Mương bao quanh
Mương bao quanh được
thiết kế mương xung quanh như sau:
-
Đào
cách bờ 0,5 m để tránh đất đá xoáy lở
từ bờ xuống mương
-
Chiều
rộng mương: Bề rộng mặt 3 m; Bề
rộng đáy là 2,5 m
-
Chiều
sâu mương bao là 1,2 m
-
Mương
dốc dần về phía cống
Mương
bao có tác dụng
-
Giữ
được lượng nước quanh năm,
để chứa cá khi làm đất cấy lúa cho các
vụ sản xuất kế tiếp
-
Giữ
và duy trì sự hoạt động của cá, khi sử
dụng thuốc trừ sâu để trị bệnh cho lúa
-
Nuôi
giữ và dồn cá khi thu hoạch
-
Lấy
nước để tước hoa màu quanh bờ
c. Cống
Mỗi ruộng cần có
một cống, cống có thể bằng xi măng,
ống sành hay gỗ tuỳ điều kiện gia đình,
tốt nhất nên dùng cống xi măng
Tác
dụng của cống
-
Chủ
động điều tiết ruộng nước
cấp và thoát nước cho ruộng.
-
Tháo
nước cho ruộng lúa xạ, cấy lúa khi sử
dụng thuốc trừ sâu, khi thu hoạch.
d. Mặt trảng
Là phần mặt ruộng còn
lại dùng để trồng lúa. Để thuận
lợi cho việc canh tác lúa điều chỉnh mức nước
trên ruộng, mặt ruộng
cần bằng phẳng
e. Ao chứa
Được thiết kế
ở đầu ruộng, gần nha.
Có
tác dụng giữ cá lúc lúa nhỏ và trữ cá lại
chờ cá lớn hoặc chờ giá cao để bán
Mặt cắt
ngang ruộng lúa nuôi cá kết hợp
Lịch thời
vụ mô hình cá - lúa
Sơ đồ: Lịch thời
vụ cho mô hình sản xuất Lúa – cá kết hợp
Ưu
điểm:
-
Tăng thu nhập trên một đơn
vị diện tích ruộng lúa.
-
Tận dụng mặt nước và
thức ăn tự nhiên có sẵn trên ruộng.
-
Cá ăn côn trùng, rong tảo, đồng
thời thải phân làm lợi cho lúa.
-
Sử dụng phân bón cho lúa sẽ làm gia tăng
thức ăn tự nhiên của cá.
Hạn
chế:
-
Mật độ thả thấp. Năng
suất cá nuôi thấp, từ 200 - 400 kg/ha.
-
Các giống lúa canh tác hiện nay phần
lớn dễ nhiễm sâu rầy, do đó sử dụng
nông dược trong canh tác lúa là điều khó tránh.
-
Mức nước trên mặt ruộng đối
với canh tác lúa khoảng 10 - 20 cm, với mức nước
này sẽ gây ra biến động lớn về một
số yếu tố môi trường. Hơn nữa khi lá
lúa ngập nước phân hủy sẽ làm tiêu hao oxy trong nước
ảnh hưởng xấu đến cá nuôi.
2. Nuôi luân canh
(một vụ lúa - một vụ cá hoặc hai vụ lúa -
một vụ cá)
Ưu
điểm:
-
Lợi nhuận từ nuôi cá cao hơn canh
tác lúa.
-
Tăng độ phì nhiêu của đất
do thức ăn, phân của cá tích lũy ở mặt
ruộng.
-
Giảm chi phí cho chuẩn bị ruộng và
phân bón cho vụ Đông - Xuân.
Hạn chế:
-
Chi phí đầu tư ban đầu lớn
cho công trình, đê bao và lưới chắn.
-
Vốn đầu tư cao về con
giống cũng như thức ăn, chăm sóc, bảo
vệ.
-
Yêu cầu người nuôi phải hiểu
biết đối tượng nuôi và quy trình kỹ
thuật ứng dụng.
1. Chuẩn bị ruộng nuôi |
Trong qui trình nuôi cá thì chuẩn bị ruộng nuôi là
khâu quan trọng ảnh hưởng quyết định đến
năng suất cá nuôi.
|
|
Hình 8: Chuẩn
bị ruộng
§
Nếu nuôi cá - lúa luân canh thì sau khi thu
hoạch lúa, có thể bón thêm phân ure để tạo chét
lúa hay dọn sạch rơm rạ, cỏ trên ruộng lúa;
sên vét lớp bùn đáy ở mương bao, chỉ để
lại lớp bùn 20-30 cm. Cho nước vào ngập
ruộng ngâm vài ngày rồi xả bỏ. Những ruộng
có hệ thống mương bao mới đào thì cần
lấy nước vào ngâm vài lần để rửa phèn.
§
Bón vôi: sử dụng vôi nung (CaO) 10 - 15 Kg/100m2.
Bón vôi sau khi đáy mương bao đã được tát
cạn, vôi được rải khắp mương và
bờ ruộng. Bón vôi ngoài việc diệt tạp, tiêu độc
đáy mương nó còn tạo điều kiện pH cao
thích hợp trong việc tạo thức ăn tự nhiên
ban đầu có ích cho cá nuôi giai đoạn nhỏ.
§
Phơi mặt ruộng và đáy mương
bao khoảng 2 - 3 ngày, tránh phơi quá lâu mặt ruộng
bị nứt nẻ làm xì phèn.
§
Cấp nước vào ruộng nuôi phải
qua lưới lọc (lưới cước a = 0,3 mm) để
ngăn chặn địch hại và tép cá tạp vào làm
giảm sản lượng nuôi và cạnh tranh thức ăn. Khi
mực nước trong mương bao đạt 1,2 m thì có
thể bón phân vô cơ DAP từ 100 - 150 g/100 m2 để
gây màu nước hoặc phân hữu cơ 7-10 kg/100m2.
Lợi ích của việc bón phân là để hạn
chế tảo đáy phát triển, tảo sẽ hấp thu
các sản phẩm Nitơ và Phospho trong nước hạn
chế nguồn gây ô nhiễm và ổn định nhiệt
độ, pH.
a. Chọn giống lúa
Mô hình lúa – cá kết hợp là
mô hình tận dụng triệt để nguồn thức
ăn tự nhiên trên ruộng lúa và hạn chế tối
đa việc sử dụng hoá chất trên đồng
ruộng do đó cần phải chọn giống lúa có
thể kháng sâu bệnh tốt như: MTL – 141, MTL – 149, MTL –
159, IR60820-81-2-1, IR64 …
Tốt nhất nên chọn phương
pháp sạ hàng.
Hình: lúa
sạ hàng
b. Chọn loài cá nuôi
Mặc dù phần lớn các loài cá nước
ngọt đều có thể nuôi chọn nuôi trong ruộng.
Tuy nhiên khi chọn loài cá thả nuôi cần lưu ý:
·
Đối tượng nuôi phải có
khả năng thích nghi, phát triển tốt và ăn các
loại thức ăn tự nhiên có sẵn trong ruộng.
·
Khả năng đầu tư thức ăn,
phân bón của người nuôi.
·
Đảm bảo số lượng
giống thả.
·
Điều quan trọng là thị hiếu
của người nuôi và nhu cầu thị trường.
Các đối tượng phổ biến hiện nay
được nuôi trong ruộng lúa là: mè vinh, chép, rô phi,
sặc rằn, rô đồng,...
Mật độ thả
nuôi tuỳ thuộc vào độ màu mỡ của nước
và lượng thức ăn cung cấp. Nếu ruộng
nuôi có đầu tư thức ăn thì mật độ
thả từ 2 - 5 con/m2.
Chất lượng con
giống rất quan trọng, do đó phải chọn cá
khỏe, có kích cỡ tương đối đồng đều,
màu sắc sáng, bơi lội nhanh nhẹn. Cỡ cá từ
200 - 400 con/kg.
v Một số công
thức nuôi kết hợp
Lợi ích của việc nuôi kết hợp các loài
cá:
-
Tận dụng tầng nước,
nguồn thức ăn trong hệ thống nuôi do các đối
tượng chọn nuôi có tính ăn và tầng nước
sinh sống khác nhau.
-
Tăng năng suất trên một đơn
vị khối lượng nước.
Tỉ lệ kết hợp các loài cá
nuôi có thể theo các công thức sau
Ø Công thức 1
Loài cá |
Tỉ lệ (%) |
Mè vinh Rô phi Chép |
50 30 20 |
Ø Công thức 2
Loài cá |
Tỉ lệ (%) |
Mè vinh Rô phi Sặc rằn Chép |
50 20 20 10 |
- Sạ lúa
v
Vụ
Hè - Thu: bắt đầu từ khoảng giữa tháng 2
đến giữa tháng 6, sau khi kết thúc vụ Đông -
Xuân
v
Vụ
Đông - Xuân: bắt đầu sau khi nước rút và thu
hoạch cá, tháng 11 đến tháng 3
- Thả cá: Nên thả cá
sớm hơn sau khi sạ lúa vài ngày (vào khoảng giữa
cuối tháng 2)
Thả cá sớm có lợi: cá
dữ ít nên tỷ lệ sống rất cao
-
Thời
gian nuôi dài, cá lúc thu hoạch lớn lúc đầu cá
giống được thả ở ao trữ và mương
bao (chưa cho lên mương ruộng)
Sau khoảng 40 – 50 ngày thì dâng nước
lên cho cá vào ruộng, lúc này lúa đã lớn.
Nên vận chuyển cá lúc trời mát để tránh
gây tổn thương cho cá. Nên thả cá lúc sáng sớm hay
chiều mát. Trước khi thả cá cần ngâm bao trong nước
ao từ 20 - 30 phút để cân bằng nhiệt độ
bên trong bao và bên ngoài môi trường nước. Khi
nhiệ t độ bên trong và bên ngoài bao tương đối
cân bằng thì mở miệng bao cho nước bên ngoài vào
trong bao, sau đó hạ từ từ cho cá bơi ra ngoài.
5. Quản lý cá nuôi |
Hình 10: Cá tập trung ăn ở mương bao
Hình 11: Chài kiểm tra tăng trưởng cá
Một trong những
yếu tố quan trọng quyết định sự thành
công trong nuôi thủy sản là thức ăn. Để cá có
thể phát triển tốt cá cần được bổ
sung thức ăn đảm bảo chất lượng
dinh dưỡng và số lượng cho ăn.
-
Thức
ăn tươi: bao gồm cá, tép, cua, ốc,
hến,... các phế phẩm từ nhà máy chế biến
thủy sản. Thức ăn tươi rất dễ làm
chất lượng nước xấu đi nhanh chóng,
hệ số tiêu tốn thức ăn cao.
-
Thức
ăn viên (công nghiệp), thức ăn chế biến: các
thành phần dinh dưỡng đã được phối
chế phù hợp với từng giai đoạn tăng trưởng
của đối tượng nuôi. Qui trình công nghệ
sản xuất thức ăn hiện đại đảm
bảo chất lượng thức ăn, thời gian
bảo quản lâu, hệ số thức ăn thấp, ít
ảnh hưởng đến chất lượng nước
trong hệ thống nuôi.
Trong
quá trình nuôi nên kết hợp thức ăn viên và thức ăn
tinh.
Một
số công thức thức ăn được phối
trộn như sau
v Công
thức 1: Cám 70% + Bột cá 25% + Bột gòn 5%
v Công
thức 2: Cám 70% + Ốc ruột xay nhỏ 25% + Bột gòn
5%
Ø Cách cho ăn
-
Trong thời gian đầu cá còn nhỏ khả
năng bắt mồi kém, yêu cầu thức ăn có
chất lượng dinh dưỡng cao, do đó nên sử
dụng thức ăn viên nổi (hàm lượng đạm
từ 25 - 30%). Cho ăn 3 - 4 lần/ngày.
-
Khi cá lớn (30 - 50g/con) nên cho ăn bổ
sung thức ăn tinh như tấm nấu chín phối
trộn với bột cá hoặc ốc, cua xay nhỏ.
-
Lượng cho thay đổi theo tháng nuôi:
Hai tháng đầu 10% trọng lượng cá, tháng thứ 3
- 4 cho ăn 7%, tháng 5 - 6 cho ăn 5% và những tháng sau cho ăn
3% (tuy nhiên lượng cho ăn phải được điều
chỉnh theo mức độ ăn mồi của cá).
-
Để điều chỉnh lượng cho
ăn phù hợp cần lưu ý một số yếu
tố như:
·
Theo dõi mức độ ăn mồi
của cá, nếu sau 30 phút cá ăn hết là đạt yêu
cầu. Trường hợp cá ăn hết nhanh trong
thời gian ngắn thì phải tăng thêm lượng
thức ăn.
·
Khi nước ao bị dơ hay có mùi nên
giảm lượng cho ăn.
Thời
kỳ sử dụng nông dược trên ruộng. Lúc này cá
ở dưới mương 10 – 15 ngày, cho cá ăn bằng
cách rãi điều trên mặt hoặc cho ăn vào sàn
tập trung ở nhiều nơi trong mương.
-
Sau khi lúa sạ 3 – 5 ngày tiến hành cho nước vào
ruộng, sau đó điều chỉnh mực nước
theo tốc độ phát triển của cây lúa, nhằm
mục đích tạo điều kiện cho cây lúa tăng
trưởng tốt, đồng thời ngăn chặn và
hạn chế cỏ dại phát triển.
- Công việc bón phân cần
được xem xét kỷ nhằm tránh thiếu hoặc
quá dư không tốt cho cây lúa
và tạo kiện cho sâu bệnh phát triển.
Có thể chia làm ba đợt
bón phân như sau:
-
Đợt
1: Từ 10 – 15 ngày sau khi
sạ lúa, bón phân Urea liều lượng 45 – 55 kg/ ha.
-
Đợt
2: Từ 25 – 30 ngày sau khi sạ lúa bón phân
Urea liều lượng:
65 – 70 kg/ha
DAP liều lượng:
45 – 55 kg/ha
-
Đợt
3: Từ 40 - 45 ngày sau khi
sạ lúa, bón phân
Urea liều lượng:
45 – 55 kg/ha
NPK liều lượng:
45 – 55 kg/ha
Ngoài sử
dụng phân bón nông dân còn xịt các loại thuốc khác
để ngừa bệnh, giúp chắc hạt với các
loại thuốc như: Regent, Topsin, Alvil…
Đối với
thuốc trừ sâu thì áp dụng phương pháp phòng
trừ sâu bệnh tổng hợp IPM, hạn chế sử
dụng thuốc trừ sâu.
Sau khi lúa
đạt 90 – 100 ngày tuổi thì lúa này đã chín có thể
thu hoạch được.
v
Điều
tiết nước trên ruộng
-
Tuần
đầu mới thả cá cũng trùng với thời gian
sạ lúa hoặc cấy lúa. Lúc này cần phải giữ
cá ở mương, sau khi sạ lúa được 40 – 50
ngày (với ruộng cấy lúa thì 20 ngày) thì dâng nước
để cá lên ruộng kiếm mồi. Trong suốt
thời gian chăm sóc lúa và nuôi cá nên duy trì mức nước
tối đa (thường từ 10 – 15cm)
-
Khi
sử dụng nông dược hoặc bón phân hoá học,
phải rút nước cho cá xuống kênh chờ 5 – 7 ngày
thuốc hết độc thì cấp nước trở
lại cho cá lên ruộng.
-
Sau
khi thu hoạch lúa hè – thu, cấp nước lên ruộng
đến mức tối đa cho cá mau lớn.
-
Khi
sử dụng thuốc nông dược cần lưu ý các
loại thuốc không được sử dụng như:
Furazon, Fastac, Thiodan, Decis, Sherpa …
7. Quản lý chất lượng nước |
·
Thay nước
Thay nước khi chất lượng nước
xấu đi, nước có mùi hôi,... cá nổi đầu
vào sáng sớm, chỉ nên thay nước khoảng 20 - 30% để
tránh tình trạng cá bị sốc. Việc thay nước
sẽ tăng thêm oxy, giảm các chất độc trong
hệ thống nuôi, kích thích cá hoạt động và
bắt mồi. Lưu ý khi thay nước phải xác định
được nguồn nước cấp có đảm
bảo yêu cầu hay không để tránh tình trạng làm
xấu đi hoặc ô nhiễm chất lượng nước
trong ruộng nuôi.
Vào đầu mùa mưa, mùa lũ thường xuyên
kiểm tra đăng, cống,... dọn cỏ quanh bờ
bao tránh để nước dâng cao ngập cỏ gây phân
huỷ làm thiếu oxy.
·
Nông dược
Trong quá trình nuôi lưu ý việc sử dụng nông dược
trong canh tác lúa cũng như hoa màu của các nông hộ
kế cận để hạn chế đến mức
thấp nhất khả năng nhiễm sang ruộng nuôi cá.
·
Nhiệt độ
Để nhiệt độ trên mặt ruộng
không biến động lớn, mực nước
thấp nhất phải đạt được là 40 cm.
·
Oxy
Trong ruộng nuôi lượng oxy hoà tan trong nước
có sự biến động giữa ngày và đêm, thấp
nhất vào lúc sáng sớm và cao nhất lúc 3 giờ
chiều. Để đảm bảo hàm lượng oxy
cao trong ruộng nuôi lưu ý thời điểm cải
tạo ruộng nuôi phải dọn sạch rơm rạ
trên mặt ruộng để hạn chế phân hũy
hữu cơ khi cấp nước vào. Biện pháp để
tăng cường và ổn định oxy ở mức
cao là thay nước khi nước có màu quá xanh hay xám.
·
pH
pH trong hệ thống nuôi biến động theo
sự phát triển của tảo. pH tăng khi tảo quang
hợp và phát triển mạnh. Những cơn mưa đầu
mùa, nhất là đối với những hệ thống
nuôi mới xây dựng, sẽ rửa phèn từ bờ
xuống hệ thống nuôi làm pH giảm. Ngoài ra sự phân
huỷ mùn bả hữu cơ ở đáy ao cũng làm cho
pH ở tầng này thấp. Dùng vôi CaO 7 - 10 kg/100m2
rải quanh bờ trước những cơn mưa
lớn. Nếu pH nước xuống dưới 7 thì dùng
vôi nông nghiệp CaCO3 hoặc Dolomite (đá vôi đen
- CaMg(CO3)2) bón với lượng 2 - 3
kg/100m2.
·
Địch
hại
Bao gồm cá tạp, cá
dữ, cua, rắn, ếch, chim,... tấn công trực
tiếp đến cá hay gián tiếp cạnh tranh thức ăn.
Để hạn chế các đối tượng này
bờ bao cần có lưới chắn và nước trước
khi vào hệ thống nuôi phải qua lọc.
8.Thu hoạch |
Năng suất cá nuôi từ 0,5 - 2 tấn/ha. Năng
suất cá nuôi dao động tùy thuộc vào đối tượng
thả nuôi và mức độ đầu tư thức ăn.
9. Một số lưu ý trong phòng bệnh cho cá nuôi |
·
Yếu tố môi trường: sự
biến động lớn về nhiệt độ, pH, và
hàm lượng oxy thấp sẽ gây sốc hoặc làm cho
cá suy yếu.
·
Tác nhân gây bệnh: bao gồm bệnh
truyền nhiễm (virus, vi khuẩn, nấm), bệnh ký sinh
trùng (nguyên sinh động vật, giun sán, giáp xác...), và các
sinh vật gây nguy hiểm cho cá (côn trùng nước, cá
dữ, rắn, ếch, chim,...) làm tổn thương đến
cá tạo điều kiện cho bệnh ký sinh hay bệnh
truyền nhiễm phát triển.
·
Yếu tố ký chủ: sức đề
kháng của cá đối với bệnh.
·
Yếu tố con người - Kỹ thuật
nuôi: Vận chuyển, đánh bắt làm tổn thương
cá - Quản lý chăm sóc không tốt, mật độ
thả nuôi quá cao.
Để hạn chế dịch
bệnh xảy ra cho cá cần làm tốt các khâu
·
Cải tạo ruộng nuôi: nhằm hạn
chế mầm bệnh phát triển và tạo môi trường
thuận lợi cho cá phát triển.
·
Chọn giống tốt và xử lý cá: không
nên thả cá mật độ quá dầy, tốt nhất
thả 1-2 con/m2. Cỡ cá thả từ 250 - 300
con/kg; cá khoẻ, không dị hình, không bị xây sát. Cá khi
mới mang về tắm trong nước muối, pha 15 g
muối trong 1 lít nước, ngâm cá trong 15 phút (lưu ý không
được để cá thiếu oxy trong khi đang ngâm
cá).
·
Chuẩn bị tốt vào thời điểm
giao mùa hay mùa mưa bão: vào thời điểm giao mùa
khả năng chống bệnh của cá yếu, các
mầm bệnh dễ phát triển, cá dễ bị
nhiễm bệnh. Bón vôi quanh bờ vào đầu mùa mưa,
dọn cỏ quanh bờ.
·
Thay nước: khi thay nước cần lưu
ý phải đảm bảo nguồn nước tốt,
chỉ thay nước khi cần thiết để tránh
làm sốc cá; mỗi lần thay chỉ nên thay khoảng 20 -
30% tổng lượng nước trong ruộng nuôi.
·
Chăm sóc cá tốt để tăng
sức đề kháng bệnh: cho cá ăn đầy đủ
về số lượng thức ăn cũng như thành
phần dinh dưỡng phải đảm bảo. Vào
những ngày thời tiết xấu nên giảm lượng
cho ăn và tăng cường thức ăn giàu dinh dưỡng.
VI. THỰC NGHIỆM NUÔI GHÉP CÁ TRONG MÔ HÌNH LÚA - CÁ KẾT HỢP CHO VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG (Long, 2002) |
Thí nghiệm thực hiện năm 1998
tại huyện Ô Môn, tỉnh Cần Thơ. Hệ
thống thí nghiệm gồm 6 ruộng lúa có diện tích
1500 m2/ruộng, bố trí với 2 nghiệm
thức mật độ thả khác nhau (1 và 2 con/m2),
và 3 lần lặp lại. 6 loài cá được nuôi ghép
theo tỉ lệ mè vinh (40%), rô phi (20%), chép (15%), mè trắng
(10%), sặc rằn (10%) và hường (5%). Thức ăn
bổ sung cho cá gồm các loại phụ phế phẩm
nông nghiệp như cua, ốc, cá tạp nước
ngọt, cám, tấm cùng các loại rau xanh với khẩu
phần 3 %/trọng lượng cá/ngày. Trong quá trình thí
nghiệm, mực nước trên ruộng lúa được
điều chỉnh tăng hay giảm theo sự phát
triển của cây lúa.
Bảng 1. Chất lượng nước
trong mô hình nuôi thí nghiệm Lúa - cá kết hợp.
Chỉ tiêu |
|
|
Nghiệm thức 1: 1 con /m2 |
Nghiệm thức 2:2 con /m2 |
||||
Lí hóa học nước |
|
|
|
|
|
|
|
|
Nhiệt độ (0C) |
|
29,1 (3,3) |
|
29 (3,4) |
||||
pH |
|
|
|
6,6 (0,3) |
|
|
6,7 (0,2) |
|
Độ trong (cm) |
|
20,8 (14,4) |
|
18 (7,8) |
||||
DO (ppm) |
|
4,7 (1) |
|
|
4,6 (1,2) |
|||
CO2 (ppm) |
|
|
|
23,1 (3,9) |
|
22,8 (3,3) |
||
COD (ppm) |
|
|
12,7 (4,03) |
|
11,9 (1,8) |
|||
NH4 + (ppm) |
|
|
0,39 (0,23) |
|
0,24 (0,14) |
|||
PO4 3-(ppm) |
|
|
0,17 (0,06) |
|
0,11 (0,04) |
|||
Năng suất sinh học (gO2/m3/ngày) |
6,8 (3,5) |
|
|
6,5 (2,7) |
||||
Thức ăn tự nhiên |
|
|
|
|
|
|
|
|
Loài Phytoplankton |
|
74 |
|
|
63 |
|
||
Số lượngü Phytoplankton (ct/l) |
48796 (15490) |
|
22337 (6689) |
|||||
Loài Zooplankton |
|
51 |
|
|
46 |
|
||
Số lượng Zooplankton (ct/l) |
414 (233) |
|
364 (107) |
|||||
Loài Zoobenthos |
|
7 |
|
|
10 |
|
||
Sinh khối Zoobenthos (g/m2) |
24,4 (15,8) |
|
13,3 (12,8) |
* Tăng
trưởng và năng suất cá nuôi
Ttrọng
bình quân của cá mè vinh, rô phi, chép và cá mè trắng theo
thứ tự là (177,5; 172,3; 443;7 và 446;7 g/cá) ở nghiệm
thức 1 cao hơn (p < 0,05) trọng lượng của
cá nuôi ở nghiệm thức 2 (155,8, 158,1, 425,8 và 428,3 g/cá).
Trọng lượng của cá sặc rằn và cá hường
giữa 2 nghiệm thức 1 và 2 (52,6 - 56,3 g/con và 142,6 - 156,8
g/con) không sai khác có ý nghĩa (p > 0,05). Tỉ lệ
sống của cá rô phi, cá mè trắng và cá sặc rằn
ở nghiệm thức 1 cao hơn so với nghiệm
thức 2 (p < 0,05). Sau cùng, năng suất cá nuôi ở
nghiệm thức 1 (482 kg/ha và 580 kg/ha/năm) thấp hơn
(p < 0,05) so với năng suất cá nuôi ở nghiệm
thức 2 (808 kg/ha và 969,5 kg/ha/năm).
Bảng
2, Tăng trưởng của cá nuôi ở nghiệm
thức 1 và 2 trong mô hình Lúa - cá, ANOVA:
Mức độ ý nghiã (*) < 0,05 và (**) < 0,01
Loài cá nuôi
|
Mật độ (%) |
Trọng lượng
ban đầu (g/cá) |
Trọng lượng thu hoạch (g/cá) |
Nghiệm
thức1: 1 con /m2 |
|
|
|
Mè
vinh |
40 |
1,73 (0,8) |
177,5 (4,8) * |
Tilapia |
20 |
2,4 (0,6) |
172,3 (9,8) * |
Chép |
15 |
3,5 (0,9) |
443,7 (9,3) * |
Mè
trắng |
10 |
4,6 (0,7) |
446,7 (8,1) * |
Sặc
rằn |
10 |
3,6 (1,0) |
52,6 (1,5) |
Hường
|
5 |
3,8 (0,9) |
142,6 (1,7) |
Nghiệm
thức 2 con/m2 |
|
|
|
Mè
vinh |
40 |
1,7 (0,8) |
155,8 (5,1) * |
Tilapia |
20 |
2,4 (0,6) |
158,1 (9,2) * |
Chép |
15 |
3,5 (0,9) |
425,8 (3,9) * |
Mè
trắng |
10 |
4,6 (0,7) |
428,3 (3,6) * |
Sặc
rằn |
10 |
3,6 (1,01) |
56,3 (0,7) |
Hường
|
5 |
3,8 (0,9) |
156,8 (2,4) |
Khảo sát về năng
suất lúa trong mô hình nuôi cá kết hợp cho thấy: Năng
suất lúa vụ Đông - Xuân và Hè - Thu (5,563 kg/ha và 3,782
kg/ha) ở nghiệm thức 1 thấp hơn so với năng
suất lúa ở nghiệm thức 2 (5,600 kg/ha và 3,800 kg/ha).
Sự khác biệt náy không có ý nghĩa thống kê (p >
0,05). Kết quả nghiên cứu này hoàn toàn phù hợp
với kết quả nghiên cứu trước đây
của Tadao Kon, 1998 nghiên cứu tại huyện Ô Môn,
tỉnh Cần Thơ.
ANOVA:
Mức độ ý nghiã (*) < 0,05 và (**) < 0,01
Loài cá nuôi
|
Tỉ lệ
sống (%) |
Năng
suất
(kg/ha) |
Năng suất (kg/ha/năm) |
Nghiệm
thức 1: 1 con /m2 |
|
|
|
Mè vinh |
26 (1,0) |
184,6 |
|
Tilapia
|
31 (2,7) * |
106,6 |
|
Chép |
9 (1,0) |
60 |
72 |
Mè trắng |
20 (2,7) * |
89,3 |
107 |
Sặc rằn |
31 (3,6) * |
16,3 |
19,6 |
Hường |
35 (3,6) |
25 |
30 |
Tỉ lệ sống (%)
|
25,3 (9,5) * |
|
|
Năng suất cá (kg/ha) |
|
482 |
|
Năng suất cá (kg/ha/năm) |
|
|
580 |
Nghiệm thức 2: 2 con /m2 |
|
|
|
Mè vinh |
24 (2,3) |
299 |
359 |
Tilapia
|
28 (2,7) * |
176,6 |
212 |
Chép |
8 (1,0) |
102 |
122,4 |
Mè trắng |
17 (2,0) * |
145,3 |
174,3 |
Sặc rằn |
28 (2,6) * |
31,5 |
37,8 |
Hường |
34 (2,0) |
53,3 |
64 |
Tỉ lệ sống (%)
|
23,2 (9,3)* |
|
|
Năng suất cá (kg/ha) |
|
808 |
|
Năng suất cá (kg/ha/năm) |
|
|
969,5 |
Phân tích hiệu quả, lợi
nhuận mang lại từ mô hình nuôi được thể
hiện ở bảng 4, Kết quả khảo sát cho
thấy, với chi phí đầu tư, khai thác mô hình ở
nghiệm thức 1 là 9.700.000 đồng/ha và nghiệm
thức 2 là 10.120.000 đồng/ha. Thu nhập mang lại
từ nghiệm thức 1 là 17.573.000 đồng/ha và
20.791.000 đồng/ha từ nghiệm thức 2. Lợi
nhuận thực tế từ cá nuôi ở nghiệm
thức 1 là 4.700.000 đồng (26,8 %), trong khi đó ở
nghiệm thức 2 là 7.841.000 đồng/ha (38 %). Tất
nhiên, tỉ suất lợi nhuận mang lại từ mô
hình nuôi ở nghiệm thức 1 (1,81) thấp hơn (p <
0,05) so với nghiệm thức 2 (2,05).
Bảng
4. Phân tích hiệu quả, lợi nhuận từ mô hình nuôi
kết hợp Lúa - cá
(Giá 1 kg cá = 10,000 đ,
1 kg lúa = 1,400 VND năm 1997 - 1998)
Hạng
mục
|
Nghiệm thức 1 (1 con/m2) |
Nghiệm
thức 2 |
Chi phí đầu
tư
|
|
|
Đầu tư sản xuất lúa (đồng/ha) |
6.890.000 |
6.890.000 |
Đầu tư nuôi cá (đồng/ha) |
2.810.000 |
3.230.000 |
Đầu tư cho hệ
thống Lúa - cá |
9.700.000* |
10.120.000* |
|
|
|
Năng suất lúa (kg/ha) |
9.345 |
9.400 |
Năng suất cá (kg/ha) |
482 * |
808 * |
Thu
nhập
|
|
|
Thu
nhập từ lúa (VND/ha) |
13.083.000 |
13.160.000 |
Thu
nhập từ cá (VND/ha) |
4.810.000
* |
8.077.000
* |
Tổng
thu nhập từ hệ thống nuôi (VND/ha) |
17.573.000 * |
20.791.000 * |
Tỉ
suất thu nhập/chi phí/ha |
1,84 * |
2,10 * |
Tỉ
suất lợi nhuận của hệ thống nuôi/ha |
1,81* |
2,05 * |