PreviousIndexNextHome
 


CHƯƠNG 1

 

MÔ HÌNH SẢN XUẤT KẾT HỢP CÁ – LÚA

 


I. CƠ SỞ CỦA SỰ KẾT HỢP LÚA – CÁ

II. ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC MỘT SỐ LOÀI CÁ NUÔI RUỘNG PHỔ BIẾN HIỆN NAY

III. THIẾT KẾ MÔ HÌNH CÁ – LÚA

     1. Chọn vị trí xây dựng

     2. Thiết kế ruộng nuôi

IV. CÁC MÔ HÌNH NUÔI CÁ TRÊN RUỘNG

V. CÁC BIỆN PHÁP KỸ THUẬT CHO MÔ HÌNH LÚA – CÁ

    1. Chuẩn bị ruộng nuôi

    2. Chọn đối tượng

    3. Thời gian sạ lúa và thả cá

    4. Vận chuyển và thả cá

    5. Quản lý cá nuôi

    6. Chăm sóc quản lý lúa

    7. Quản lý chất lượng nước

    8. Thu hoạch

    9. Một số lưu ý trong phòng bệnh cho cá nuôi

VI. THỰC NGHIỆM NUÔI GHÉP CÁ TRONG MÔ HÌNH LÚA - CÁ KẾT HỢP CHO VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG (Long, 2002)

 

I. CƠ SỞ CỦA SỰ KẾT HỢP LÚA – CÁ

   

 

            Nghiên cứu của FAO (2000) cho rằng: Trên thế giới nghề nuôi thủy sản, đặc biệt là mô hình nuôi kết hợp lúa - cá ở môi trường nước ngọt ngày càng được đầu tư nghiên cứu, phát triển, thể hiện ở nhiều nước vùng Đông Nam Châu Á như: China, Việt Nam, Thailand, Indonesia, Malaysia, Bangladesh, India, Philippines, Korea và Cambodia (Cruz et al., 1992). Trong điều kiện Việt Nam và đặc biệt ở vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long, mô hình trồng lúa kết hợp nuôi cá đã được đầu tư nghiên cứu, khai thác và phát triển từ lâu (Tuấn, Tâm, 1993; Chiếm, 1994; Chi, 1997; Xuân và Đương, 1998) và năng suất sản phẩm cùng hiệu quả của mô hình nuôi đã được khẳng định, góp phần cải thiện cuộc sống cho người dân ở vùng nông thôn (Xuân, 1994; Sánh, 1994; Chiếm, 1994). Nedeco (1993); Xuân và Shigeo Matsui (1998) cho rằng, nếu các đây 10 năm, có khoảng 20 - 30 % nông hộ tham gia sản xuất với mô hình kết hợp thì hiện nay, tỉ lệ nầy ở vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long đã là 70 - 80 %. Theo kết quả khảo sát của WES, 1997 trong nhiều yếu tố ảnh hưởng đến năng suất, sản lượng và tính hiệu quả của mô hình nuôi, thì mật độ cá thả nuôi thường cao, dao động từ 1.8 - 4,8 con/m2 là yếu tố chính ảnh hưởng đến sự giảm thấp và biến động về năng suất cá nuôi trong mô hình: 99 - 730 kg/ha (Chí, 1997; Đương và Rothuis, 1998 và Sinh và ctv, 1997 - 2000).

 

 

       Hình 1: Mô hình trồng lúa kết hợp nuôi cá

 

I. CƠ SỞ CỦA SỰ KẾT HỢP LÚA – CÁ

 

   1. Tăng thêm thu nhập góp phần cải thiện đời sống nông dân

 

Ở ĐBSCL có hàng triệu ha ruộng cấy lúa có thể nuôi cá kết hợp được. Trên thực tế số ruộng có thả cá nuôi rất ít. Phần lớn các ruộng nông dân chỉ lợi dụng vào theo cá tự nhiên sau mỗi mùa thu hoạch. Nếu mỗi người đều phải hiểu biết về lợi ích kinh tế và kỹ thuật thì tôm cá nuôi ở ruộng sẽ tăng thêm thu nhập, cải thiện đời sống cho người dân.

 

   2. Nuôi cá có kết hợp cấy lúa, năng suất lúa sẽ cao hơn so với ruộng không nuôi cá       

           

Khi nuôi cá ở ruộng lúa, cá sục bùn tìm mồi ở đáy ruộng diệt cỏ dại, côn trùng, sâu bệnh hại lúa, đồng thời phân cá thải ra làm đất giàu dinh dưỡng. Vì vậy năng suất lúa sẽ tăng.

 

   3. Khả năng tiêu diệt sâu rầy của cá

 

Ở ruộng nuôi cá kết hợp với cấy lúa, người ta rất hạn chế sử dụng thuốc trừ sâu, nên giảm được công lao động và hạ giá thành sản phẩm.

 

   4. Tăng thêm thức ăn cho cá

 

Trồng lúa có trục xạ đất, bón phân làm tăng thêm thức ăn cho cá, đồng thời lúa rụng củng làm thức ăn tốt cho cá. Vì vậy cá nuôi ở ruộng chủ yếu dựa và thức ăn tự nhiên, nên ít đầu tư thức ăn

 

 Mối tương quan của mô hình

 

-        Hạn chế côn trùng hại lúa, cỏ dại, ốc, các bệnh về lúa do cá tận dụng được  nguồn thức ăn sẳn có trên đồng ruộng

-        Giảm việc sử dụng phân bón thuốc trừ sâu độc hại cho con người và môi trường.

-        Tiết kiệm được lượng giống, phân bón….

-        Tận dụng được thời gian nhàn rổi của bà con nông dân trong vụ lúa và thời gian nước lũ dâng lên.

 

II. ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC MỘT SỐ LOÀI CÁ NUÔI RUỘNG PHỔ BIẾN HIỆN NAY

 

     1. Cá mè vinh (Barbodes gonionotus)

 

Cá mè vinh là loài cá ăn tạp, thức ăn của chúng bao gồm thực vật thủy sinh (rau muống, bèo, rong,...), côn trùng, ngoài ra cá cũng ăn thức ăn chế biến.

Cá tăng trưởng tương đối nhanh, sau 6 - 8 nuôi đạt trọng lượng bình quân 0,3 kg/con.

 


Hình 2: Cá mè vinh (Barbodes gonionotus)

 


      2. Cá sặc rằn (Trichogaster pectoralis)

 

Cá sặc rằn là loài cá thích sống nơi môi trường nước tỉnh (ao, hồ, ruộng lúa, rừng tràm...), chúng có thể sống trong nước lợ.

 

            Do có cơ quan hô hấp khí trời nên cá có thể sống được ở thủy vực có hàm lượng oxy thấp. Nhiệt độ thích hợp cho cá phát  triển từ 28 - 320C, pH từ 6 - 8.

 

            Cá ăn tạp nhưng thiêng về thực vật. Trong điều kiện nuôi ruộng, mật độ thả 1 - 2 con/4 m2 có bổ sung thức ăn tinh, cá đạt trọng lượng 80 - 100 g sau 6 tháng nuôi.

 

 


 


Hình 3: Cá Sặc rằn (Trichogaster pectoralis)

 

 

    3. Cá rô phi (Oreochromis sp)

 


 


Hình 4: Cá rô phi (Oreochromis sp)

 

Cá rô phi là loài cá đặc trưng vùng nhiệt đới. Các yếu tố môi trường thích hợp cho sự sinh trưởng và phát triển cá rô phi: nhiệt độ 24 - 320C, pH 6 - 8,5. Cá rô phi là loài rộng muối, cá sống trong nước ngọt, lợ và mặn (32‰). Cá tăng trưởng khá, sau 8 tháng nuôi, cá đạt trọng lượng bình quân 300 - 400 g/con.

 

4. Cá chép (Cyprinus carpio)

 


 


Hình 5: Cá chép (Cyprinus carpio)

 

Cá chép phân bố rộng, cá sống chủ yếu trong nước ngọt. Nhiệt độ thích hợp cho cá chép phát triển từ 22 - 320C, pH 7 - 8.

 

            Cá sống tầng đáy là chủ yếu, thức ăn của chúng bao gồm các sinh vật đáy (nhuyễn thể, ấu trùng côn trùng, thực vật thủy sinh...). Cá ăn được thức ăn chế biến (cám, tấm, bột ngũ cốc, cá tạp, phế phụ phẩm  nhà bếp...)

 

5. Cá hường (Helostoma temmincki)

 


 


Hình 6: Cá hường (Helostoma temmincki)

 

Cá sống tầng nước giữa và tầng mặt, phân bố ở các thủy vực nước tỉnh. Nhiệt độ thích hợp cho cá phát triển từ 26 - 320C, pH 6 - 8.

 

            Cá có cơ quan hô hấp khí trời nên có thể sống trong môi trường thiếu oxy.

            Cá ăn thực vật là chính; cá tăng trưởng chậm, sau 8 tháng nuôi cá đạt trọng lượng bình quân 80 g/con.

 

6. Cá tai tượng (Osphronmus gouramy)

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


Hình 7: Cá tai tượng (Osphronmus gouramy)

 

Cá tai tượng là loài cá đặc trưng của vùng nhiệt đới. Cá có cơ quan hô hấp khí trời nên có thể sống được trong điều kiện thiếu oxy. Cá có thể chịu được pH = 4, phát triển tốt ở pH 6 - 8, sống được ở nồng độ muối đến 8 ‰. Cá tăng trưởng nhanh trong khoảng nhiệt độ từ 26 - 320C, ở nhiệt độ thấp cá lớn chậm và thường hay bị bệnh.

 

Cá tai tượng là loài cá ăn tạp thiên về thực vật. Giai đoạn nhỏ cá ăn động vật phù du, côn trùng; khi lớn cá ăn thực vật là chính.

 

            Cá tai tượng là loài có kích thước lớn, tuy nhiên tốc độ sinh trưởng tương đối chậm, trong điều kiện ao nuôi sau một năm cá đạt trọng lượng từ 0,6 -1 kg/con.

 

III. THIẾT KẾ MÔ HÌNH CÁ – LÚA

 

1. Chọn vị trí xây dựng

 

Khi chọn địa điểm để nuôi cá cần lưu ý một số yếu tố sau

-         Nguồn nước: vấn đề quan trọng hàng đầu trong nuôi cá là phải đảm bảo nguồn nước tốt và cấp tiêu chủ động. Một điều cần lưu ý khi chọn điểm nuôi cá là phải biết được sự biến động của nguồn nước theo mùa và theo năm, đặc điểm khí tượng thuỷ văn của vùng để có thể dự đoán và ngăn chặn thất thoát cá nuôi trong mùa lũ hoặc mùa mưa bão.

-         Chọn đất có cơ cấu chất đất phải giữ được nước và ít bị nhiễm phèn.

-         Lịch thời vụ sản xuất nông nghiệp của vùng để biết được mức độ ô nhiễm hiện tại và tiềm tàng do sử dụng nông dược. Những nơi sử dụng nhiều nông dược nhất là thuốc trừ sâu có tính lưu dẫn cao và thời gian phân hủy kéo dài sẽ làm ảnh hưởng đến cá nuôi. Khu vực nuôi cá nếu tiếp giáp với khu sản xuất màu sẽ có nguy cơ bị nhiễm độc nông dược do phun xịt hay khi cấp nước vào khu nuôi cá.

-         Tiện đi lại và chăm sóc quản lý.

 

2. Thiết kế ruộng nuôi

 

Diện tích ruộng khoảng 0,3 - 2 ha tùy theo điều kiện cụ thể

Có thể thiết kế theo nhiều dạng như: dạng mương chữ L, dạng mương trung tâm, dạng mương xương cá …

Trong mô hình này để tiện lợi và đạt hiệu quả cao nên chọn dạng mương bao và ao trữ.

 

a. Bờ bao quanh

 

Bờ bao quanh được đắp với diện tích như sau:

-        Chiều rộng mặt bờ 1- 2 m

-        Chiều rộng chân bờ 2 - 4 m

-        Chiều cao bờ phải cao hơn mực nước cao nhất trong năm 20 cm

 

Tác dụng của bờ bao quanh

 

-        Giữ không cho cá ra ngoài

-        Giữ nước không bị rò rĩ

-        Để sử dụng hiệu quả diện tích đất sản xuất, bờ bao có thể trồng dưa, khổ qua, bí, mướp, ớt để tăng thu nhập

-        Có thể đi lại trên bờ để chăm sóc, quản lí ruộng.

 

b. Mương bao quanh

 

Mương bao quanh được thiết kế mương xung quanh như sau:

-        Đào cách bờ 0,5 m để tránh đất đá xoáy lở từ bờ xuống mương

-        Chiều rộng mương: Bề rộng mặt 3 m; Bề rộng đáy là 2,5 m

-        Chiều sâu mương bao là 1,2 m

-        Mương dốc dần về phía cống

 

 Mương bao có tác dụng

 

-        Giữ được lượng nước quanh năm, để chứa cá khi làm đất cấy lúa cho các vụ sản xuất kế tiếp

-        Giữ và duy trì sự hoạt động của cá, khi sử dụng thuốc trừ sâu để trị bệnh cho lúa

-        Nuôi giữ và dồn cá khi thu hoạch

-        Lấy nước để tước hoa màu quanh bờ

 

c. Cống

 

Mỗi ruộng cần có một cống, cống có thể bằng xi măng, ống sành hay gỗ tuỳ điều kiện gia đình, tốt nhất nên dùng cống xi măng

 

Tác dụng của cống

 

-        Chủ động điều tiết ruộng nước cấp và thoát nước cho ruộng.

-        Tháo nước cho ruộng lúa xạ, cấy lúa khi sử dụng thuốc trừ sâu, khi thu hoạch.

 

d. Mặt trảng

 

Là phần mặt ruộng còn lại dùng để trồng lúa. Để thuận lợi cho việc canh tác lúa điều chỉnh mức nước trên  ruộng, mặt ruộng cần bằng phẳng

 

e. Ao chứa

 

Được thiết kế ở đầu ruộng, gần nha.

Có tác dụng giữ cá lúc lúa nhỏ và trữ cá lại chờ cá lớn hoặc chờ giá cao để bán

 

 

 

 

 

 

 

 

Line Callout 2 (Accent Bar): Mương 

 


                                    Mặt cắt ngang ruộng lúa nuôi cá kết hợp

 

Lịch thời vụ mô hình cá - lúa


 


Sơ đồ: Lịch thời vụ cho mô hình sản xuất Lúa – cá kết hợp

 

IV. CÁC MÔ HÌNH NUÔI CÁ TRÊN RUỘNG

   1.      Nuôi xen canh (nuôi kết hợp)

Ưu điểm:

-         Tăng thu nhập trên một đơn vị diện tích ruộng lúa.

-         Tận dụng mặt nước và thức ăn tự nhiên có sẵn trên ruộng.

-         Cá ăn côn trùng, rong tảo, đồng thời thải phân làm lợi cho lúa.

-         Sử dụng phân bón cho lúa sẽ làm gia tăng thức ăn tự nhiên của cá.

Hạn chế:

-         Mật độ thả thấp. Năng suất cá nuôi thấp, từ 200 - 400 kg/ha.

-         Các giống lúa canh tác hiện nay phần lớn dễ nhiễm sâu rầy, do đó sử dụng nông dược trong canh tác lúa là điều khó tránh. 

-         Mức nước trên mặt ruộng đối với canh tác lúa khoảng 10 - 20 cm, với mức nước này sẽ gây ra biến động lớn về một số yếu tố môi trường. Hơn nữa khi lá lúa ngập nước phân hủy sẽ làm tiêu hao oxy trong nước ảnh hưởng xấu đến cá nuôi.

 

2.      Nuôi luân canh (một vụ lúa - một vụ cá hoặc hai vụ lúa - một vụ cá)

Ưu điểm:

-         Lợi nhuận từ nuôi cá cao hơn canh tác lúa.

-         Tăng độ phì nhiêu của đất do thức ăn, phân của cá tích lũy ở mặt ruộng.

-         Giảm chi phí cho chuẩn bị ruộng và phân bón cho vụ Đông - Xuân.

Hạn chế:

-         Chi phí đầu tư ban đầu lớn cho công trình, đê bao và lưới chắn.

-         Vốn đầu tư cao về con giống cũng như thức ăn, chăm sóc, bảo vệ.

-         Yêu cầu người nuôi phải hiểu biết đối tượng nuôi và quy trình kỹ thuật ứng dụng.

 

V. CÁC BIỆN PHÁP KỸ THUẬT CHO MÔ HÌNH LÚA – CÁ

     1. Chuẩn bị ruộng nuôi

Trong qui trình nuôi cá thì chuẩn bị ruộng nuôi là khâu quan trọng ảnh hưởng quyết định đến năng suất cá nuôi.

 

 

 

 Hình 8: Chuẩn bị ruộng

 

§        Nếu nuôi cá - lúa luân canh thì sau khi thu hoạch lúa, có thể bón thêm phân ure để tạo chét lúa hay dọn sạch rơm rạ, cỏ trên ruộng lúa; sên vét lớp bùn đáy ở mương bao, chỉ để lại lớp bùn 20-30 cm. Cho nước vào ngập ruộng ngâm vài ngày rồi xả bỏ. Những ruộng có hệ thống mương bao mới đào thì cần lấy nước vào ngâm vài lần để rửa phèn.

§        Bón vôi: sử dụng vôi nung (CaO) 10 - 15 Kg/100m2. Bón vôi sau khi đáy mương bao đã được tát cạn, vôi được rải khắp mương và bờ ruộng. Bón vôi ngoài việc diệt tạp, tiêu độc đáy mương nó còn tạo điều kiện pH cao thích hợp trong việc tạo thức ăn tự nhiên ban đầu có ích cho cá nuôi giai đoạn nhỏ.

§        Phơi mặt ruộng và đáy mương bao khoảng 2 - 3 ngày, tránh phơi quá lâu mặt ruộng bị nứt nẻ làm xì phèn.

§        Cấp nước vào ruộng nuôi phải qua lưới lọc (lưới cước a = 0,3 mm) để ngăn chặn địch hại và tép cá tạp vào làm giảm sản lượng nuôi và cạnh tranh thức ăn. Khi mực nước trong mương bao đạt 1,2 m thì có thể bón phân vô cơ DAP từ 100 - 150 g/100 m2 để gây màu nước hoặc phân hữu cơ 7-10 kg/100m2. Lợi ích của việc bón phân là để hạn chế tảo đáy phát triển, tảo sẽ hấp thu các sản phẩm Nitơ và Phospho trong nước hạn chế nguồn gây ô nhiễm và ổn định nhiệt độ, pH.

 

   2 . Chọn đối tượng

 

a. Chọn giống lúa

 

Mô hình lúa – cá kết hợp là mô hình tận dụng triệt để nguồn thức ăn tự nhiên trên ruộng lúa và hạn chế tối đa việc sử dụng hoá chất trên đồng ruộng do đó cần phải chọn giống lúa có thể kháng sâu bệnh tốt như: MTL – 141, MTL – 149, MTL – 159, IR60820-81-2-1, IR64 …

Tốt nhất nên chọn phương pháp sạ hàng.

 

 

Hình: lúa sạ hàng

 

b. Chọn loài cá nuôi

Mặc dù phần lớn các loài cá nước ngọt đều có thể nuôi chọn nuôi trong ruộng. Tuy nhiên khi chọn loài cá thả nuôi cần lưu ý:

·        Đối tượng nuôi phải có khả năng thích nghi, phát triển tốt và ăn các loại thức ăn tự nhiên có sẵn trong ruộng.

·        Khả năng đầu tư thức ăn, phân bón của người nuôi.

·        Đảm bảo số lượng giống thả.

·        Điều quan trọng là thị hiếu của người nuôi và nhu cầu thị trường.

Các đối tượng phổ biến hiện nay được nuôi trong ruộng lúa là: mè vinh, chép, rô phi, sặc rằn, rô đồng,...

 

            Mật độ thả nuôi tuỳ thuộc vào độ màu mỡ của nước và lượng thức ăn cung cấp. Nếu ruộng nuôi có đầu tư thức ăn thì mật độ thả từ 2 - 5 con/m2.

            Chất lượng con giống rất quan trọng, do đó phải chọn cá khỏe, có kích cỡ tương đối đồng đều, màu sắc sáng, bơi lội nhanh nhẹn. Cỡ cá từ 200 - 400 con/kg.

 

v     Một số công thức nuôi kết hợp

Lợi ích của việc nuôi kết hợp các loài cá:

-         Tận dụng tầng nước, nguồn thức ăn trong hệ thống nuôi do các đối tượng chọn nuôi có tính ăn và tầng nước sinh sống khác nhau.

-         Tăng năng suất trên một đơn vị khối lượng nước.

 

Tỉ lệ kết hợp các loài cá nuôi có thể theo các công thức sau

Ø     Công thức 1

Loài cá

Tỉ lệ (%)

Mè vinh

Rô phi

Chép

50

30

20

 

Ø     Công thức 2

Loài cá

Tỉ lệ (%)

Mè vinh

Rô phi

Sặc rằn

Chép

50

20

20

10

 

    3. Thời gian sạ lúa và thả cá

 

            - Sạ lúa

 

v     Vụ Hè - Thu: bắt đầu từ khoảng giữa tháng 2 đến giữa tháng 6, sau khi kết thúc vụ Đông - Xuân

v     Vụ Đông - Xuân: bắt đầu sau khi nước rút và thu hoạch cá, tháng 11 đến tháng 3

- Thả cá: Nên thả cá sớm hơn sau khi sạ lúa vài ngày (vào khoảng giữa cuối tháng 2)

Thả cá sớm có lợi: cá dữ ít nên tỷ lệ sống rất cao

 

-        Thời gian nuôi dài, cá lúc thu hoạch lớn lúc đầu cá giống được thả ở ao trữ và mương bao (chưa cho lên mương ruộng)

 

Sau khoảng 40 – 50 ngày thì dâng nước lên cho cá vào ruộng, lúc này lúa đã lớn.

 

     4. Vận chuyển và thả cá

 

 


Hình 9: Ngâm bao cá giống trước khi thả nuôi

 


Nên vận chuyển cá lúc trời mát để tránh gây tổn thương cho cá. Nên thả cá lúc sáng sớm hay chiều mát. Trước khi thả cá cần ngâm bao trong nước ao từ 20 - 30 phút để cân bằng nhiệt độ bên trong bao và bên ngoài môi trường nước. Khi nhiệ t độ bên trong và bên ngoài bao tương đối cân bằng thì mở miệng bao cho nước bên ngoài vào trong bao, sau đó hạ từ từ cho cá bơi ra ngoài.

 

    5. Quản lý cá nuôi

 

 

Hình 10: Cá tập trung ăn ở mương bao

 

 

Hình 11: Chài kiểm tra tăng trưởng cá

 

Ø     Thức ăn

            Một trong những yếu tố quan trọng quyết định sự thành công trong nuôi thủy sản là thức ăn. Để cá có thể phát triển tốt cá cần được bổ sung thức ăn đảm bảo chất lượng dinh dưỡng và số lượng cho ăn.

-        Thức ăn tươi: bao gồm cá, tép, cua, ốc, hến,... các phế phẩm từ nhà máy chế biến thủy sản. Thức ăn tươi rất dễ làm chất lượng nước xấu đi nhanh chóng, hệ số tiêu tốn thức ăn cao.

-        Thức ăn viên (công nghiệp), thức ăn chế biến: các thành phần dinh dưỡng đã được phối chế phù hợp với từng giai đoạn tăng trưởng của đối tượng nuôi. Qui trình công nghệ sản xuất thức ăn hiện đại đảm bảo chất lượng thức ăn, thời gian bảo quản lâu, hệ số thức ăn thấp, ít ảnh hưởng đến chất lượng nước trong hệ thống nuôi.

Trong quá trình nuôi nên kết hợp thức ăn viên và thức ăn tinh.

Một số công thức thức ăn được phối trộn như sau

v     Công thức 1: Cám 70% + Bột cá 25% + Bột gòn 5%

v     Công thức 2: Cám 70% + Ốc ruột xay nhỏ 25% + Bột gòn 5%

 

Ø     Cách cho ăn

-         Trong thời gian đầu cá còn nhỏ khả năng bắt mồi kém, yêu cầu thức ăn có chất lượng dinh dưỡng cao, do đó nên sử dụng thức ăn viên nổi (hàm lượng đạm từ 25 - 30%). Cho ăn 3 - 4 lần/ngày.

-         Khi cá lớn (30 - 50g/con) nên cho ăn bổ sung thức ăn tinh như tấm nấu chín phối trộn với bột cá hoặc ốc, cua xay nhỏ.

-         Lượng cho thay đổi theo tháng nuôi: Hai tháng đầu 10% trọng lượng cá, tháng thứ 3 - 4 cho ăn 7%, tháng 5 - 6 cho ăn 5% và những tháng sau cho ăn 3% (tuy nhiên lượng cho ăn phải được điều chỉnh theo mức độ ăn mồi của cá).

-         Để điều chỉnh lượng cho ăn phù hợp cần lưu ý một số yếu tố như:

·        Theo dõi mức độ ăn mồi của cá, nếu sau 30 phút cá ăn hết là đạt yêu cầu. Trường hợp cá ăn hết nhanh trong thời gian ngắn thì phải tăng thêm lượng thức ăn.

·        Khi nước ao bị dơ hay có mùi nên giảm lượng cho ăn.

Thời kỳ sử dụng nông dược trên ruộng. Lúc này cá ở dưới mương 10 – 15 ngày, cho cá ăn bằng cách rãi điều trên mặt hoặc cho ăn vào sàn tập trung ở nhiều nơi trong mương.

 

 

 

      6.Chăm sóc quản lý lúa

 

 - Sau khi lúa sạ 3 – 5 ngày tiến hành cho nước vào ruộng, sau đó điều chỉnh mực nước theo tốc độ phát triển của cây lúa, nhằm mục đích tạo điều kiện cho cây lúa tăng trưởng tốt, đồng thời ngăn chặn và hạn chế cỏ dại phát triển.

 

- Công việc bón phân cần được xem xét kỷ nhằm tránh thiếu hoặc quá dư không tốt cho cây  lúa và tạo kiện cho sâu bệnh phát triển.

 

Có thể chia làm ba đợt bón phân như sau:

-        Đợt 1: Từ  10 – 15 ngày sau khi sạ lúa, bón phân Urea liều lượng 45 – 55 kg/ ha.

-        Đợt 2: Từ 25 – 30 ngày sau khi sạ lúa bón phân

                        Urea liều lượng: 65 – 70 kg/ha

                        DAP liều lượng: 45 – 55 kg/ha

 

-        Đợt 3: Từ 40 -  45 ngày sau khi sạ lúa, bón phân

                        Urea liều lượng: 45 – 55 kg/ha

                        NPK liều lượng: 45 – 55 kg/ha

 

Ngoài sử dụng phân bón nông dân còn xịt các loại thuốc khác để ngừa bệnh, giúp chắc hạt với các loại thuốc như: Regent, Topsin, Alvil…

Đối với thuốc trừ sâu thì áp dụng phương pháp phòng trừ sâu bệnh tổng hợp IPM, hạn chế sử dụng thuốc trừ sâu.

Sau khi lúa đạt 90 – 100 ngày tuổi thì lúa này đã chín có thể thu hoạch được.

 

v     Điều tiết nước trên ruộng

 

-        Tuần đầu mới thả cá cũng trùng với thời gian sạ lúa hoặc cấy lúa. Lúc này cần phải giữ cá ở mương, sau khi sạ lúa được 40 – 50 ngày (với ruộng cấy lúa thì 20 ngày) thì dâng nước để cá lên ruộng kiếm mồi. Trong suốt thời gian chăm sóc lúa và nuôi cá nên duy trì mức nước tối đa (thường từ 10 – 15cm)

-        Khi sử dụng nông dược hoặc bón phân hoá học, phải rút nước cho cá xuống kênh chờ 5 – 7 ngày thuốc hết độc thì cấp nước trở lại cho cá lên ruộng.

-        Sau khi thu hoạch lúa hè – thu, cấp nước lên ruộng đến mức tối đa cho cá mau lớn.

-        Khi sử dụng thuốc nông dược cần lưu ý các loại thuốc không được sử dụng như: Furazon, Fastac, Thiodan, Decis, Sherpa …

  7. Quản lý chất lượng nước

 

·        Thay nước

Thay nước khi chất lượng nước xấu đi, nước có mùi hôi,... cá nổi đầu vào sáng sớm, chỉ nên thay nước khoảng 20 - 30% để tránh tình trạng cá bị sốc. Việc thay nước sẽ tăng thêm oxy, giảm các chất độc trong hệ thống nuôi, kích thích cá hoạt động và bắt mồi. Lưu ý khi thay nước phải xác định được nguồn nước cấp có đảm bảo yêu cầu hay không để tránh tình trạng làm xấu đi hoặc ô nhiễm chất lượng nước trong ruộng nuôi.

Vào đầu mùa mưa, mùa lũ thường xuyên kiểm tra đăng, cống,... dọn cỏ quanh bờ bao tránh để nước dâng cao ngập cỏ gây phân huỷ làm thiếu oxy.

·        Nông dược

Trong quá trình nuôi lưu ý việc sử dụng nông dược trong canh tác lúa cũng như hoa màu của các nông hộ kế cận để hạn chế đến mức thấp nhất khả năng nhiễm sang ruộng nuôi cá.

·        Nhiệt độ

Để nhiệt độ trên mặt ruộng không biến động lớn, mực nước thấp nhất phải đạt được là 40 cm.

·        Oxy

Trong ruộng nuôi lượng oxy hoà tan trong nước có sự biến động giữa ngày và đêm, thấp nhất vào lúc sáng sớm và cao nhất lúc 3 giờ chiều. Để đảm bảo hàm lượng oxy cao trong ruộng nuôi lưu ý thời điểm cải tạo ruộng nuôi phải dọn sạch rơm rạ trên mặt ruộng để hạn chế phân hũy hữu cơ khi cấp nước vào. Biện pháp để tăng cường và ổn định oxy ở mức cao là thay nước khi nước có màu quá xanh hay xám.

·        pH

pH trong hệ thống nuôi biến động theo sự phát triển của tảo. pH tăng khi tảo quang hợp và phát triển mạnh. Những cơn mưa đầu mùa, nhất là đối với những hệ thống nuôi mới xây dựng, sẽ rửa phèn từ bờ xuống hệ thống nuôi làm pH giảm. Ngoài ra sự phân huỷ mùn bả hữu cơ ở đáy ao cũng làm cho pH ở tầng này thấp. Dùng vôi CaO 7 - 10 kg/100m2 rải quanh bờ trước những cơn mưa lớn. Nếu pH nước xuống dưới 7 thì dùng vôi nông nghiệp CaCO3 hoặc Dolomite (đá vôi đen - CaMg(CO3)2) bón với lượng 2 - 3 kg/100m2.

·        Địch hại

            Bao gồm cá tạp, cá dữ, cua, rắn, ếch, chim,... tấn công trực tiếp đến cá hay gián tiếp cạnh tranh thức ăn. Để hạn chế các đối tượng này bờ bao cần có lưới chắn và nước trước khi vào hệ thống nuôi phải qua lọc.

 

     8.Thu hoạch

         Sau 5 - 7 tháng nuôi, bơm nước hạ dần mức nước ruộng để cá tập trung xuống mương bao, sau đó dùng lưới kéo, số còn lại tát cạn và thu hoạch bằng tay.

Năng suất cá nuôi từ 0,5 - 2 tấn/ha. Năng suất cá nuôi dao động tùy thuộc vào đối tượng thả nuôi và mức độ đầu tư thức ăn.

    9.  Một số lưu ý trong phòng bệnh cho cá nuôi

    Nguyên nhân cá bị bệnh: Cá mắc bệnh là kết quả tương tác giữa ba nhân tố: Môi trường - Tác nhân gây bệnh - Ký chủ (bản thân cá).

·        Yếu tố môi trường: sự biến động lớn về nhiệt độ, pH, và hàm lượng oxy thấp sẽ gây sốc hoặc làm cho cá suy yếu.

·        Tác nhân gây bệnh: bao gồm bệnh truyền nhiễm (virus, vi khuẩn, nấm), bệnh ký sinh trùng (nguyên sinh động vật, giun sán, giáp xác...), và các sinh vật gây nguy hiểm cho cá (côn trùng nước, cá dữ, rắn, ếch, chim,...) làm tổn thương đến cá tạo điều kiện cho bệnh ký sinh hay bệnh truyền nhiễm phát triển.

·        Yếu tố ký chủ: sức đề kháng của cá đối với bệnh.

·        Yếu tố con người - Kỹ thuật nuôi: Vận chuyển, đánh bắt làm tổn thương cá - Quản lý chăm sóc không tốt, mật độ thả nuôi quá cao.

 

Để hạn chế dịch bệnh xảy ra cho cá cần làm tốt các khâu

·        Cải tạo ruộng nuôi: nhằm hạn chế mầm bệnh phát triển và tạo môi trường thuận lợi cho cá phát triển.

·        Chọn giống tốt và xử lý cá: không nên thả cá mật độ quá dầy, tốt nhất thả 1-2 con/m2. Cỡ cá thả từ 250 - 300 con/kg; cá khoẻ, không dị hình, không bị xây sát. Cá khi mới mang về tắm trong nước muối, pha 15 g muối trong 1 lít nước, ngâm cá trong 15 phút (lưu ý không được để cá thiếu oxy trong khi đang ngâm cá).

·        Chuẩn bị tốt vào thời điểm giao mùa hay mùa mưa bão: vào thời điểm giao mùa khả năng chống bệnh của cá yếu, các mầm bệnh dễ phát triển, cá dễ bị nhiễm bệnh. Bón vôi quanh bờ vào đầu mùa mưa, dọn cỏ quanh bờ.

·        Thay nước: khi thay nước cần lưu ý phải đảm bảo nguồn nước tốt, chỉ thay nước khi cần thiết để tránh làm sốc cá; mỗi lần thay chỉ nên thay khoảng 20 - 30% tổng lượng nước trong ruộng nuôi.

·        Chăm sóc cá tốt để tăng sức đề kháng bệnh: cho cá ăn đầy đủ về số lượng thức ăn cũng như thành phần dinh dưỡng phải đảm bảo. Vào những ngày thời tiết xấu nên giảm lượng cho ăn và tăng cường thức ăn giàu dinh dưỡng.

 

VI. THỰC NGHIỆM NUÔI GHÉP CÁ TRONG MÔ HÌNH LÚA - CÁ KẾT HỢP CHO VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG (Long, 2002)

 

Thí nghiệm thực hiện năm 1998 tại huyện Ô Môn, tỉnh Cần Thơ. Hệ thống thí nghiệm gồm 6 ruộng lúa có diện tích 1500 m2/ruộng, bố trí với 2 nghiệm thức mật độ thả khác nhau (1 và 2 con/m2), và 3 lần lặp lại. 6 loài cá được nuôi ghép theo tỉ lệ mè vinh (40%), rô phi (20%), chép (15%), mè trắng (10%), sặc rằn (10%) và hường (5%). Thức ăn bổ sung cho cá gồm các loại phụ phế phẩm nông nghiệp như cua, ốc, cá tạp nước ngọt, cám, tấm cùng các loại rau xanh với khẩu phần 3 %/trọng lượng cá/ngày. Trong quá trình thí nghiệm, mực nước trên ruộng lúa được điều chỉnh tăng hay giảm theo sự phát triển của cây lúa.

 

Bảng 1.  Chất lượng nước trong mô hình nuôi thí nghiệm Lúa - cá kết hợp.

 

Chỉ tiêu

 

 

Nghiệm thức 1: 1 con /m2

Nghiệm thức 2:2 con /m2

Lí hóa học nước

 

 

 

 

 

 

 

Nhiệt độ (0C)

 

29,1 (3,3)

 

29 (3,4)

pH

 

 

 

6,6 (0,3)

 

 

6,7 (0,2)

Độ trong (cm)

 

20,8 (14,4) 

 

18 (7,8)     

DO (ppm)

 

4,7 (1)

 

 

4,6 (1,2)

CO2 (ppm)

 

 

 

23,1 (3,9)

 

22,8 (3,3)

COD (ppm)

 

 

12,7 (4,03)

 

11,9 (1,8)

NH4 + (ppm)

 

 

0,39 (0,23) 

 

0,24 (0,14)

PO4 3-(ppm)

 

 

0,17 (0,06) 

 

0,11 (0,04)

Năng suất sinh học (gO2/m3/ngày)

6,8 (3,5)

 

 

6,5 (2,7)

Thức ăn tự nhiên

 

 

 

 

 

 

 

Loài Phytoplankton

 

74

 

 

63

 

Số lượngü Phytoplankton (ct/l)

48796 (15490)

 

22337 (6689)

Loài Zooplankton

 

51

 

 

46

 

Số lượng Zooplankton (ct/l)

414 (233)

 

364 (107)

Loài Zoobenthos

 

7

 

 

10

 

Sinh khối Zoobenthos (g/m2)

24,4 (15,8)

 

13,3 (12,8)

 

 

* Tăng trưởng và năng suất cá nuôi

 

Ttrọng bình quân của cá mè vinh, rô phi, chép và cá mè trắng theo thứ tự là (177,5; 172,3; 443;7 và 446;7 g/cá) ở nghiệm thức 1 cao hơn (p < 0,05) trọng lượng của cá nuôi ở nghiệm thức 2 (155,8, 158,1, 425,8 và 428,3 g/cá). Trọng lượng của cá sặc rằn và cá hường giữa 2 nghiệm thức 1 và 2 (52,6 - 56,3 g/con và 142,6 - 156,8 g/con) không sai khác có ý nghĩa (p > 0,05). Tỉ lệ sống của cá rô phi, cá mè trắng và cá sặc rằn ở nghiệm thức 1 cao hơn so với nghiệm thức 2 (p < 0,05). Sau cùng, năng suất cá nuôi ở nghiệm thức 1 (482 kg/ha và 580 kg/ha/năm) thấp hơn (p < 0,05) so với năng suất cá nuôi ở nghiệm thức 2 (808 kg/ha và 969,5 kg/ha/năm).

 

Bảng 2, Tăng trưởng của cá nuôi ở nghiệm thức 1 và 2 trong mô hình Lúa - cá, ANOVA: Mức độ ý nghiã (*) < 0,05 và (**) < 0,01

 

Loài cá nuôi

Mật độ

(%)

Trọng lượng ban đầu (g/cá)

Trọng lượng thu hoạch (g/cá)

Nghiệm thức1: 1 con /m2

 

 

 

Mè vinh

40

1,73 (0,8)

177,5 (4,8) *

Tilapia

20

2,4 (0,6)

172,3 (9,8) *

Chép

15

3,5 (0,9)

443,7 (9,3) *

Mè trắng

10

4,6 (0,7)

446,7 (8,1) *

Sặc rằn

10

3,6 (1,0)

52,6 (1,5)

Hường

5

3,8 (0,9)

142,6 (1,7)

Nghiệm thức 2 con/m2

 

 

 

Mè vinh

40

1,7 (0,8)

155,8 (5,1) *

Tilapia

20

2,4 (0,6)

158,1 (9,2) *

Chép

15

3,5 (0,9)

425,8 (3,9) *

Mè trắng

10

4,6 (0,7)

428,3 (3,6) *

Sặc rằn

10

3,6 (1,01)

56,3 (0,7)

Hường

5

3,8 (0,9)

156,8 (2,4)

 

* Năng suất lúa

 

Khảo sát về năng suất lúa trong mô hình nuôi cá kết hợp cho thấy: Năng suất lúa vụ Đông - Xuân và Hè - Thu (5,563 kg/ha và 3,782 kg/ha) ở nghiệm thức 1 thấp hơn so với năng suất lúa ở nghiệm thức 2 (5,600 kg/ha và 3,800 kg/ha). Sự khác biệt náy không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Kết quả nghiên cứu này hoàn toàn phù hợp với kết quả nghiên cứu trước đây của Tadao Kon, 1998 nghiên cứu tại huyện Ô Môn, tỉnh Cần Thơ.

Bảng 3, Tỉ lệ sống (%) và năng suất cá nuôi (kg/ha) trong mô hình Lúa - cá

ANOVA: Mức độ ý nghiã (*) < 0,05 và (**) < 0,01

 

Loài cá nuôi

Tỉ lệ sống (%)

Năng suất

(kg/ha)

Năng suất

(kg/ha/năm)

Nghiệm thức 1: 1 con /m2

 

 

 

Mè vinh

26 (1,0)

184,6

  221,5

Tilapia

31 (2,7) *

106,6

130

Chép

9 (1,0)

60

72

Mè trắng

20 (2,7) *

89,3

107

Sặc rằn

31 (3,6) *

16,3

19,6

Hường

35 (3,6)

25

30

Tỉ lệ sống (%)

25,3 (9,5) *

 

 

Năng suất cá (kg/ha)

 

482

 

Năng suất cá (kg/ha/năm)

 

 

580

Nghiệm thức 2: 2 con /m2

 

 

 

Mè vinh

24 (2,3)

299

359

Tilapia

28 (2,7) *

176,6

212

Chép

8 (1,0)

102

122,4

Mè trắng

17 (2,0) *

145,3

174,3

Sặc rằn

28 (2,6) *

31,5

37,8

Hường

34 (2,0)

53,3

64

Tỉ lệ sống (%)

23,2 (9,3)*

 

 

Năng suất cá (kg/ha)

 

808

 

Năng suất cá (kg/ha/năm)

 

 

969,5

 

* Hiệu quả của mô hình nuôi kết hợp

 

Phân tích hiệu quả, lợi nhuận mang lại từ mô hình nuôi được thể hiện ở bảng 4, Kết quả khảo sát cho thấy, với chi phí đầu tư, khai thác mô hình ở nghiệm thức 1 là 9.700.000 đồng/ha và nghiệm thức 2 là 10.120.000 đồng/ha. Thu nhập mang lại từ nghiệm thức 1 là 17.573.000 đồng/ha và 20.791.000 đồng/ha từ nghiệm thức 2. Lợi nhuận thực tế từ cá nuôi ở nghiệm thức 1 là 4.700.000 đồng (26,8 %), trong khi đó ở nghiệm thức 2 là 7.841.000 đồng/ha (38 %). Tất nhiên, tỉ suất lợi nhuận mang lại từ mô hình nuôi ở nghiệm thức 1 (1,81) thấp hơn (p < 0,05) so với nghiệm thức 2 (2,05).

Bảng 4. Phân tích hiệu quả, lợi nhuận từ mô hình nuôi kết hợp Lúa - cá

  (Giá 1 kg cá = 10,000 đ, 1 kg lúa = 1,400 VND năm 1997 - 1998)

 

Hạng mục

 Nghiệm thức 1 (1 con/m2)

Nghiệm thức 2
(2 con/m2)

Chi phí đầu tư

 

 

      Đầu tư sản xuất lúa (đồng/ha)

6.890.000

6.890.000

 Đầu tư nuôi cá (đồng/ha)

2.810.000

3.230.000

 Đầu tư cho hệ thống Lúa - cá

  9.700.000*

 10.120.000*

Năng suất

 

 

 Năng suất lúa (kg/ha)

9.345

9.400

 Năng suất cá (kg/ha)

    482 *

  808  *

Thu nhập

 

 

Thu nhập từ lúa (VND/ha)

13.083.000

13.160.000

Thu nhập từ cá (VND/ha)

 4.810.000 *

 8.077.000 *

Tổng thu nhập từ hệ thống nuôi (VND/ha)

  17.573.000  *

   20.791.000 *

Tỉ suất thu nhập/chi phí/ha

  1,84 *

  2,10 *

Tỉ suất lợi nhuận của hệ thống nuôi/ha

  1,81*

  2,05 *

 


 
TopPreviousIndexNextHome