PreviousIndexNextHome


VĂN HỌC VIỆT NAM 1955 -1975   

CHẾ LAN VIÊN  

( 1920 – 1989 )   

1 - Vài nét về tiểu sử và con người.  

2 – Chế Lan Viên với thơ:  

3 – Chế Lan Viên với văn xuôi  

4 – Phong cách nghệ thuật của Chế Lan Viên:  

5 – Kết luận chung

HƯỚNG DẪN HỌC TẬP  


VĂN HỌC VIỆT NAM 1955 -1975   

CHẾ LAN VIÊN

1 - Vài nét về tiểu sử và con người.  

Top

            Tên thật là: Phan Ngọc Hoan

            Bút danh khác: Thạch Hăn, Chàng Văn.

            Quê quán: Cam An - Cam Lộ- Quảng Trị. Thời trai trẻ chủ yếu sống ở Quy Nhơn - B́nh Định. Có thể xem đây là quê hương thứ hai của Chế Lan Viên, nơi đă để lại những dấu ấn sâu sắc trong tâm hồn của nhà thơ.

            Cách mạng tháng Tám thành công, Chế Lan Viên đến với cách mạng bằng sự hăng hái nhiệt t́nh của tuổi trẻ. Ông làm biên tập cho các báo Quyết thắng của Mặt trận Việt minh, báo Cứu quốc, Kháng chiến của liên khu IV. Năm 1949 Chế Lan Viên được kết nạp vào Đảng.

            Năm 1954, Chế Lan Viên tập kết ra Bắc làm biên tập viên báo Văn học. Từ năm 1956 đến năm 1958, ông công tác ở Pḥng Văn nghệ, Ban tuyên huấn Trung Ương và đến cuối năm 1958 trở lại làm biên tập tuần báo Văn học. Từ năm 1963  ông là ủy viên thường vụ Hội Nhà văn Việt Nam, ủy viên ban thư kí Hội Nhà văn Việt Nam.

            Từ sau năm 1975, ông chuyển vào công tác ở thành phố Hồ Chí Minh và qua đời tại đó vào ngày 19 -  6 - 1989.

            Ông để lại cho nền văn học dân tộc một khối lượng tác phẩm khá đồ sộ :

            - Trước Cách mạng tháng Tám :

                        + Thơ : Điêu tàn (1937)

                        + Văn xuôi :  Vàng sao (1942  )

            - Sau Cách mạng tháng Tám :

                        + Thơ : Gửi các anh (1955), Aùnh sáng và phù sa ( 1960), Hoa ngày thường - Chim báo băo (1967), Những bài thơ đánh giặc (1972), Đối thoại mới (1973), Ngày vĩ đại (1975), Hoa trước lăng Người (1976), Hái theo mùa (1977), Hoa trên đá (1984), Ta gửi cho ḿnh (1986), Di cảo thơ I ( 1992), Di cảo thơ II ( 1993), Di cảo thơ III ( 1996).

                        + Văn xuôi, tiểu luận, phê b́nh : Thăm Trung Quốc (1963), Những ngày nổi giận (1966), Nói chuyện văn thơ (1960), Phê b́nh văn học ( 1962), Vào nghề (1962), Suy nghĩ và b́nh luận (1971), Bay theo đường dân tộc đang bay (1977), Từ gác khuê văn đến quán Trung Tân ( 1981), Nghĩ cạnh ḍng thơ ( 1982), Ngoại vi thơ (1987).

            Có thể nói, cả cuộc đời ḿnh, Chế Lan Viên gắn bó với Tổ quốc, có nỗi đau xót xa trước cảnh Điêu tàn và bao niềm vui khi cuộc đời rực rỡ phù sa. Cuộc sống cách mạng đă giúp Chế Lan Viên “Bay theo đường dân tộc đang bay”, tạo điều kiện thuận lợi để ông phát huy được tài năng, đóng góp lớn cho kho tàng văn chương của dân tộc.  

2 – Chế Lan Viên với thơ:  

Top

2.1 – Vài nét về quan niệm thơ của Chế Lan Viên:

Quan niệm thơ của Chế Lan Viên được thể hiện ở các bài viết, bài nói chuyện, đặc biệt là trong rất nhiều bài thơ và tập trung chủ yếu vào các vấn đề sau:

2.1.1 - Quan niệm về vị trí và phẩm chất của nhà thơ:

Chế Lan Viên quan niệm sáng tạo thơ là một nghề cao quư trong xă hội, nhà thơ phải có vị trí, sứ mệnh cao cả đối với đời. “Nghề thơ”, không phải ai cũng làm được, bởi nhà thơ phải có hồn thi sĩ. Nhà thơ không chỉ biết tin yêu cuộc đời, có khát vọng vươn tới cái chân, thiện, mĩ của cuộc sống, mà c̣n phải thật sự khổ luyện để vượt lên tất cả. Nhà thơ cần phải nh́n, nghe và suy ngẫm để góp phần lí giải khám phá những vấn đề trong đời sống. Nghề thơ đ̣i hỏi nhà thơ phải có tài năng thơ mới có thể cảm nhận, khám phá, thể hiện cuộc sống một cách tinh tế, nhạy bén. Mặt khác, nghề thơ c̣n đ̣i hỏi nhà thơ vừa phải biết giữ ǵn, trân trọng và phát huy cái tài năng “bẩm sinh trời cho”, vừa phải không ngừng học hỏi, tự bồi dưỡng, rèn luyện và trau dồi về mọi phương diện nhằm sáng tạo nên cái “thần mới” cho thơ.

            Chế Lan Viên luôn xem việc học hỏi, sáng tạo là cuộc Vượt bể trong suốt cả đời ḿnh và ông khẳng định, Nghề của chúng ta cần phải nắm bắt chính xác “ṿng quay thời đại” để “tạo nên mùa” và đừng để thời gian trôi qua một cách vô ích, phải luôn biết vượt lên tất cả để  Săn thơ, T́m thơ.

            Chế Lan Viên đ̣i hỏi, nhà thơ cần phải có cá tính sáng tạo. Ông ví mỗi nhà thơ như một ḍng sông mang đặc tính và vẻ đẹp riêng. Nhà thơ phải giữ được “cái tạng riêng” cho ḿnh. Nếu chỉ biết đi theo lối ṃn trong sáng tạo, th́ nhà thơ  tự “đánh mất ḿnh”, hoặc sẽ rơi vào “cái đội quân nhạt nhạt mờ mờ”.

Nghề thơ đ̣i hỏi nhà thơ không chỉ có tài năng, mà c̣n phải có nhân cách, có cái tâm trong sáng bởi đó là gốc rễ của văn chương. “Đừng hợm hĩnh” và đừng bao giờ nghĩ rằng “không có các anh th́ không ai uống sữa của Trời”.

            Với quan niệm trên, Chế Lan Viên đă khẳng định vai tṛ, tầm vóc của nhà thơ trong đời sống xă hội, những người đă và đang làm công việc “vực sự sống ba chiều lên trang thơ hai mặt phẳng”.

2.1.2 - Ư nghĩa và tác dụng của thơ :

            Chế Lan Viên luôn có suy ngẫm sâu sắc về mối quan hệ giữa nghệ thuật và đạo đức trong đời sống xă hội. Ông luôn tự hỏi “ta v́ ai”, “tôi viết cho ai?” để từ đó sáng tạo nên những vần  thơ có ích cho đời và vui sướng khi trở thành “một người cầm bút có ích, làm thơ có ích”. Mặt khác, Chế Lan Viên quan niệm, thơ không chỉ “đưa ru”, “sưởi ấm” người đọc bằng t́nh cảm mănh liệt, ước mơ lăng mạn, mà c̣n phải có khả năng “thức tỉnh” họ bằng ánh sáng của trí tuệ.

            Qua cách thể hiện khác nhau, Chế Lan Viên luôn nhấn mạnh, thơ góp “thêm tiếng cười”, “thêm vị muối cho đời”, là “nhành hoa mát mắt cho đời”, thơ có khả năng ḱ diệu: “tát bể”, cân đời”, thơ làm cho con người tự tin hơn trong cuộc sống.

            Từ quan niệm, thơ là “các đỉnh tinh thần chất ngất”, Chế Lan Viên đă chỉ rơ tác dụng mănh liệt của thơ đối với người đọc, tác dụng đó vượt khỏi giới hạn về không gian. Cho dù câu thơ viết ở “kinh tuyến này” nhưng vẫn làm nên sự “rung động trào sôi ở kinh tuyến khác”.

            Ông khẳng định: “thơ phải trả lời”, phải có khả năng giải đáp được những ǵ đă, đang và sẽ xảy ra trong đời sống. Nếu thiếu lời giải đáp th́ thơ đă mắc Nợ đối với đời. Chế Lan Viên c̣n muốn thơ phải là Thuốc có khả năng chữa lành vết thương trong cơi tinh thần con người, “có ích cho nỗi đau người”, để “phục sinh” con người. Thơ là Tiếng hú, một tín hiệu giao cảm để từ đó lay động tâm hồn người đọc khiến họ sống có ư nghĩa hơn đối với đời.

Tóm lại, Chế Lan Viên luôn tâm niệm: “thơ cần có ích / hăy bắt đầu từ nơi ấy mà đi”, đó là cái đích mà Chế Lan Viên luôn hướng tới.

2.1.3 - Nghệ thuật sáng tạo thơ :

Vốn tâm huyết với nghề, với thơ, Chế Lan Viên luôn có suy nghĩ độc đáo, sâu sắc về nghệ thuật sáng tạo thơ. Điều này được biểu hiện rơ ở nhiều bài tiểu luận, phê b́nh, nói chuyện thơ và ở nhiều bài thơ của Chế Lan Viên. Ông quan tâm nhiều về mối quan hệ giữa nội dung và h́nh thức, về thể loại, về vần, câu, chữ, ư, nhạc ..., cũng như việc phát huy truyền thống và đổi mới, sáng tạo ở phương diện nghệ thuật thơ.  Càng về cuối đời, Chế Lan Viên càng bàn kĩ và suy ngẫm nhiều về nghệ thuật sáng tạo thơ. Ông có một loạt bài thơ nói về Thi pháp ồn, Thi pháp trẻThi pháp của thơ độc đáo, điều đó gợi ra cho những người sáng tác thơ bao điều cần ngẫm nghĩ.  

Chế Lan Viên đ̣i hỏi người “thợ thơ”phải nắm bắt được một số kĩ thuật và phương pháp cần thiết cho việc sáng tạo thơ. Ông cho rằng: “làm thơ là tạo ra một hành tinh thứ hai bằng ngôn ngữ”. Ngôn ngữ thơ có lúc mộc mạc hồn nhiên, nhưng lại có lúc phải mang vẻ đẹp ḱ diệu như “hài hoa cô Tấm”, như “mái tóc thơm hương cấm cung”. Nhà thơ phải biết t́m ṭi, cân nhắc, lựa chọn để từ ngữ được sử dụng thêm cái “đa thanh, đa sắc” của đời. Chế Lan Viên không chấp nhận sự cầu ḱ, g̣ gẫm, mà cần phải “căng cái dây h́nh ảnh ngữ ngôn qua vực tâm hồn sâu thẳm”. Ông đă phê phán kiểu cố làm cho mới lạ, làm xiếc chữ nghĩa trong thơ

            Nhà thơ cần chọn được cho thơ ḿnh cách nói, giọng điệu hợp lí nhất với t́nh cảm và nhận thức của người đọc trong những hoàn cảnh khác nhau của đời sống xă hội và ở giọng điệu nào cũng toát lên sự chân t́nh, tâm huyết v́ con người, v́ cuộc đời. Nhà thơ phải luôn biết mở rộng tâm hồn lắng nghe, đón nhận nhiều cung bậc của nhạc điệu cuộc sống để tạo nên chất nhạc cho thơ. Thơ cần có sự quyện ḥa giữa nhạc và ư, câu thơ “ở ngoài là ư là h́nh / ở trong là nhạc”. Chế Lan Viên cho rằng, nhạc có khả năng làm cho tâm hồn “lắc lư”, “làm cho con người giải thoát”... Chính những cung bậc nhạc điệu đă góp phần tăng thêm sức ám ảnh của thơ đối với người đọc.

Mặt khác, Chế Lan Viên rất chú trọng đến mối quan hệ giữa nội dung và h́nh thức của thơ. Đạt đến cái Thiện, cái Chân là mục đích mà thơ hướng tới, nhưng tất cả điều đó phải được biểu hiện bằng h́nh thức Đẹp. Ông khẳng định: “H́nh thức cũng là vũ khí. Sắc đẹp câu thơ cũng phải đấu tranh cho chân lí”. Sự hài ḥa giữa nội dung và h́nh thức trong thơ sẽ tạo nên vẻ đẹp cho thơ.

Tóm lại, trong suốt quá tŕnh sáng tạo, Chế Lan Viên luôn có những trăn trở, suy ngẫm về nghề, về thơ. Điều đó đă góp phần không nhỏ đối với sự phát triển của thơ ca Việt Nam hiện đại.  

2.2 – Thơ Chế Lan Viên trước Cách mạng tháng Tám:

Buổi đầu đến với thơ, Chế Lan Viên đă làm người đọc phải phải “kinh dị” không chỉ v́ sự xuất hiện đột ngột của một tâm hồn thơ trẻ tuổi, mà c̣n bởi    “trong giọng buồn quen thuộc của thơ ca lăng mạn 32 – 45, đây là giọng buồn ảo năo, có pha màu huyền bí”.

Tuổi trẻ của Chế Lan Viên gắn liền với Quy Nhơn, B́nh Định, nơi hàng ngày trên con đường đi về, nhà thơ đă cảm nhận được những dấu tích điêu tàn của Chiêm Quốc. Cũng chính nơi đây, tâm hồn nhạy cảm của nhà thơ đă rung động mạnh mẽ khi nghe kể về những câu chuyện linh thiêng, những truyền thuyết về một đất nước xa xưa, để rồi suy tưởng, hay buồn thương nuối tiếc giống dân Hời.

Đến với thơ của Chế Lan Viên trước cách mạng, người đọc dễ dàng nhận thấy, thơ ông in rơ những dấu ấn của thực tại cuộc sống và chất chứa bao niềm suy tưởng về quá khứ đau thương của một dân tộc. Trước những chứng tích của một nền văn minh bị mai một theo thời gian c̣n lại như : ngọn tháp, đền đài, tượng Chàm … , đă gợi lên cho tâm hồn thơ Chế Lan Viên biết bao sự liên tưởng mạnh mẽ và để rồi, nhà thơ lặng lẽ “quay về xem non nước giống dân Hời”.

Khám phá những giá trị của thơ Chế Lan Viên trước cách mạng, một trong những điều khiến chúng ta phải ngẫm nghĩ  đó là cái thế giới đầy kinh dị, là nỗi đau xót được tạo nên bởi tâm hồn thơ tuổi trẻ có trí tưởng tượng phong phú. Ở ông trào dậy bao điều suy nghĩ và bao nỗi xót xa, buồn tủi về những ǵ đang diễn ra trong cuộc sống hiện tại. Ông cay đắng khi nhận ra cái thế giới xung quanh ḿnh đầy rẫy những tṛ gian trá, bịp bợm, thâm hiểm và xảo quyệt, ông ngậm ngùi cho những kiếp Sống ṃn, Đời thừa, Bước đường cùng,…

Chế Lan Viên t́m đến thơ để gửi gắm và giăi bày sự suy ngẫm của ḿnh về cuộc sống. Ông nói đến nỗi đau của dân tộc Chàm cũng là để bộc lộ nỗi đau của chính ḿnh trước cảnh đời hiện tại. Chính từ những nhận thức đó nhà thơ Chế Lan Viên cảm nhận sâu sắc về sự vô nghĩa, “cái u buồn”, “u tối”, “cái sầu vô hạn” giữa cuộc đời hiện tại và ông đă thốt lên :

                        Với tôi tất cả đều vô nghĩa

                        Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau !

                                                                        ( Xuân )

Có lẽ trong sự sâu thẳm ở cơi ḷng Chế Lan Viên, h́nh ảnh của “những tháp gầy ṃn v́ mong đợi”, “những đền xưa đổ nát dưới Thời gian”, “những tượng Chàm lở lói rỉ rên than”…, không chỉ là h́nh ảnh của một nước Chàm đă mất, mà c̣n là sự dự cảm về số phận của dân tộc Việt trong cảnh nô lệ lầm than. Cuộc sống hiện tại được Chế Lan Viên cảm nhận với niềm uất hận, đau thương, nên dẫu có “xuân về trong nắng sớm” nhưng trong ḷng ông vẫn “đông lạnh giá băng thôi”.

Chế Lan Viên phủ nhận thực tại xă hội đương thời và thất vọng, chán nản trước “những sắc màu, h́nh ảnh của trần gian” để hướng đến “một tinh cầu giá lạnh”, “một v́ sao trơ trọi cuối trời xa”.… Ông đă đi t́m ḿnh, t́m Cơi Ta trong sự cô đơn và bơ vơ giữa cái mênh mông xa vắng của cuộc đời để rồi xót xa, buồi tủi nhận ra ḿnh chỉ là “một cánh chim thu lạc cuối ngàn”, ông thốt lên :

                        Đường về thu trước xa lắm lắm

                        Mà kẻ đi về chỉ một tôi !

Tóm lại, trước thực tại của xă hội đó, nhà thơ Chế Lan Viên đă t́m được  cách nói độc đáo để thể hiện một cách thấm thía, sâu sắc những nỗi đau đời của ông. Có thể nói, Chế Lan Viên “t́m về quá khứ của một dân tộc khác là một cách nói, mà cũng là một cách tránh nói về hiện thực mất nước của dân tộc ḿnh( Vũ Tuấn Anh).

  2.3 – Thơ Chế Lan Viên sau Cách mạng tháng Tám.

2.3.1 - Thơ Chế Lan Viên trong thời ḱ kháng chiến chống Pháp

Cách mạng tháng Tám thành công, lịch sử  dân tộc đă sang trang. Cùng với những thay đổi lớn lao và mạnh mẽ của đời sống dân tộc, cuộc đời và thơ Chế Lan Viên đă thoát khỏi “thung lũng đau thương và sự cô đơn, bế tắc để “t́m ra ánh sáng”, “ḥa hợp với người”.

Chế Lan Viên hạnh phúc đón chào cách mạng, nhiệt thành tham gia kháng chiến, nhưng con người nghệ sĩ  trong ông không ít những nỗi băn khoăn, trăn trở về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cách mạng, để rồi ngày một nhận thức thấm thía hơn về ư nghĩa thiêng liêng của nghệ thuật khi gắn liền với cuộc sống cách mạng của dân tộc. 

Chế Lan Viên sống gắn bó với đời sống kháng chiến, hiểu hơn về Tổ quốc và nhân dân. Trong thời gian kháng chiến, sự sáng tạo thơ của Chế Lan Viên chỉ dừng lại ở tập thơ Gửi các anh gồm 14 bài. Những tháng năm đó, con người nghệ sĩ ở Chế Lan Viên chủ yếu nghiền ngẫm, t́m ṭi về phương thức thể thiện để phù hợp với nhu cầu thẩm mĩ của cuộc đời mới. Ộng đă trải qua những gian truân vất vả và cảm nhận được không khí hào hùng, sôi động của dân tộc trong kháng chiến. Ông xúc động mănh liệt trước bao nhiêu tấm gương hi sinh anh dũng của những con người b́nh thường giản dị để làm nên chiến thắng.

Ở tập thơ Gửi các anh, bỏ đi phần g̣ ép, chập chững buổi đầu trên con đường thơ cách mạng, chúng ta cũng dễ nhận ra sự xúc động của Chế Lan Viên khi viết về người mẹ trong vùng giặc chiếm với t́nh cảm chân thành. Đó là ḷng yêu thương mẹ của đứa con “nghĩ đến mẹ nhiều nước mắt rưng rưng”. Nghĩ về mẹ, nhà thơ đă cảm nhận t́nh thương của mẹ “là gió dịu đưa hương”, và “mẹ thương con như sữa nồng, như nước mắt” Chế Lan Viên c̣n ghi lại những niềm vui b́nh dị của đời sống kháng chiến ở  Một bữa cơm thường trong bản nhỏ.  Nhà thơ xúc động, viết về sự ngă xuống của các anh bộ đội ở nơi biên giới Việt – Lào, bên bờ suối Vạn Mai, hay “dưới một gốc cây sung chín đỏ mùa hè”. H́nh ảnh của những người dân công “gánh bom gập người, đường dài đứt hơi ” mà vẫn luôn yêu đời cũng đă đi vào thơ Chế Lan Viên trong niềm tự hào trân trọng. Ông xót xa đau đớn trước cảnh quê hương ch́m trong khói lửa chiến tranh, “máu đă ḥa nước mắt”, “ngút trời đồng bốc lửa”,và “đồi sim lầy máu tươi”. Chế Lan Viên những mong mọi người hăy luôn  Nhớ lấy để trả thù cho quê hương, Tổ quốc.

Có thể nói, sống chân thành, sâu sắc với hiện thực đời sống kháng chiến chống Pháp của dân tộc, Chế Lan Viên đă đưa thơ ông thoát khỏi dĩ văng buồn thương để trở về với cuộc đời hiện tại trong niềm tin yêu. Cuộc sống cách mạng và kháng chiến đă tạo điều kiện thuận lợi, chắp cánh cho tâm hồn thơ Chế Lan Viên vươn tới những đỉnh cao nghệ thuật và Bay theo đường dân tộc đang bay.

2.3.2 - Thơ Chế Lan Viên trong những năm xây dựng chủ nghĩa xă hội

Cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi, Tổ quốc và dân tộc kiêu hănh tiến bước trên một chặng đường lịch sử mới.  Chế Lan Viên ḥa ḿnh với cuộc sống xây dựng chủ nghĩa xă hội ở miền Bắc trong niềm vui và hạnh phúc. Trong hoàn cảnh cuộc đời mới, hơn lúc nào hết, Chế Lan Viên càng nhận rơ hơn ư nghĩa lớn lao mà ông đă có được ở những tháng năm ông sống gắn bó với cuộc sống kháng chiến của dân tộc. Ông đă khẳng định :

               Ôi kháng chiến mười năm qua như ngọn lửa

                                    Ngh́n năm sau vẫn đủ sức soi đường.

                                                                        ( Tiếng hát con tàu )

            Nỗi đau về cuộc sống quá khứ đă qua và niềm vui giữa cuộc sống hiện tại ngày một dâng đầy, tâm hồn thơ của Chế Lan Viên giờ  đây như ngập tràn niềm vui trước cuộc đời rực rỡ phù sa. Nhà thơ quan niệm “ lấy cái  vui của  đời  đánh  bạt  mọi thương đau”. Càng gắn bó với cuộc đời, nhà thơ càng thấm thía hơn bao niềm hạnh phúc đang đến với ḿnh. Nhà thơ đă cảm nhận “hạnh phúc như đào ngon chín tới”, “hạnh phúc nào không hạnh phúc đầu tiên” và “mỗi bước đời ta ghép một vần thương”. Niềm vui càng trở nên rạo rực và càng nhân lên khi Chế Lan Viên nhận thức về cuộc sống ngày càng sâu sắc hơn. V́ thế, những vần thơ của nhà thơ viết về cuộc đời mới rất đỗi đằm thắm ngọt ngào.Nhà thơ cảm nhận:

                                    Cái sống ngọt ngào trong từng sợi cỏ

                                    Một cành hoa cũng muốn giục môi hôn.

                                                                                    ( Tàu đến )

            Sống giữa niềm vui của cuộc đời mới, Chế Lan Viên đă có quan niệm mới mẻ về quê hương. Quê hương không chỉ là nơi chôn nhau, cắt rốn, mà quê hương c̣n là nơi ta gắn bó và biết sống hết ḿnh v́ nó. Trong bài thơ Tiếng hát con tàu, nhà thơ viết :

               Khi  ta ở chỉ là nơi đất ở

                                    Khi ta đi, đất đă hóa tâm hồn .

                        hay là :

                                    T́nh yêu làm đất lạ hóa quê hương.

            - Nghĩ về cuộc sống hiện tại trong sự  so sánh với quá khứ đau thương của dân tộc, Chế Lan Viên càng tự hào khi hiểu rằng cuộc đời ngày thêm rực rỡ phù sa, ngày một thêm ư nghĩa, và ông thốt lên trong niềm hạnh phúc :

Những ngày tôi sống đây là những ngày đẹp hơn tất cả 

Dù mai sau đời muôn vạn lần hơn

                        và:

                                    Dẫu có bay giữa trăng sao cũng tiếc không được

     sống phút bây giờ .

                                                                        (Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng? )

Chế Lan Viên đă đi “từ chân trời của một người, đến chân trời của mọi người”. Cuộc đời mới là nguồn sức mạnh tinh thần giúp nhà thơ Đi thực tế, gặp lại nhân dân và hiểu “cuộc sống bao la rung cả những ḷng đang riêng lẻ ”, nhà thơ khát vọng:

                                    Tôi muốn đến chỗ nước trời lẫn sắc

                                    Nơi bốn mùa đă hóa thành thu

                                    Nơi đáy bể những rừng san hô vờ thức ngủ

                                    Những rừng rong tóc xơa lược trăng cài

                                    Nơi những đàn mây trắng xóa cá bay đi …

                                                                        ( Cành phong lan bể )

            Cuộc sống mới chứa chan Aùnh sáng và phù sa đă thực sự giúp Chế Lan Viên “lấn từng nỗi đau như mùa chiêm lấn vành đai trắng” và “nay trở  về ta lấy lại vàng ta”. Khi đă có hướng rồi, nhà thơ không ngần ngại “Đi ra với sông, đi ra với trời, đi ra với đời” để  cảm nhận được :

                                    Tôi yêu quá cuộc đời như con đẻ

                                    Như đêm xuân người vợ trẻ yêu chồng

Tôi nối với bạn bè như với bể

                                    Cả ḷng tôi là một giải sông Hồng.

                                                                        ( Chim lượn trăm ṿng )

            Càng đến với cuộc sống , những vần thơ của Chế Lan Viên càng chan chứa niềm tin yêu cuộc sống và có quan niệm đúng đắn về con người công dân trong cuộc đời mới. Trước đây nhà thơ trăn trở về cái Ta, Cơi ta, th́  giờ đây nhà thơ đă nhận thức sâu sắc về trách nhiệm của ḿnh trước cuộc đời mới :

                                    Ta là ai ?  Như ngọn gió siêu h́nh

                                    Câu hỏi hư vô thổi ngh́n nến tắt

                                    Ta v́ ai ?  Khẽ xoay chiều ngọn bấc

                                    Bàn tay người thắp lại triệu chồi xanh.

                                                                        ( Hai câu hỏi )

            Chế Lan Viên có khát vọng làm một cánh chim “lượn trăm ṿng trên Tổ quốc mênh mông” để được “trở lại giữa rừng sâu Việt Bắc”, “đến trước đồi Điện Biên rực lửa”, “đến cả những vùng xưa chẳng đến”, “về giữa miền Nam trời của mẹ”, “ra bể cá nồng hơi gió bể”, “nối với bạn bè như với bể”, được ngắm nh́n “ngàn núi trăm sông diễm lệ” và mở rộng tâm hồn ḿnh đón nhận bao niềm vui và hạnh phúc giữa cuộc đời. Với khát vọng đó, nhà thơ ḷng tự dặn ḷng :

                                    Ở đâu chưa đi th́ ḷng sẽ đến

                                    Lúc trở về, ḷng ngậm những cành thơ.

                                                                        ( Qua Hạ Long )

            Cuộc sống mới được nhà thơ cảm nhận với niềm tin yêu chân thành và đó chính là nguồn thi hứng lớn lao, mạnh mẽ, luôn trỗi dậy trong tâm hồn nhà thơ. Những đổi thay ḱ diệu của cuộc sống đă tạo tâm hồn thơ Chế Lan Viên càng thêm dạt dào cảm xúc. Nhiều bài thơ của Chế Lan Viên trong thời ḱ này thể hiện sự nhận thức sâu sắc về vẻ đẹp của Tổ quốc và dân tộc, về vai tṛ của Đảng và Bác Hồ, tiêu biểu là : Tiếng hát con tàu, Cành phong lan bể, Tàu đến, Tàu đi, Kết nạp Đảng trên quê mẹ, Người đi t́m h́nh của nước …

            Được tắm ḿnh giữa đời sống của nhân dân, được ánh sáng của Đảng soi rọi và phù sa của cuộc đời vun đắp, Chế Lan Viên đă vượt khỏi nỗi đau riêng đến với niềm vui chung của dân tộc bằng tấm ḷng chân thành và sự tài hoa nghệ thuật để dâng hiến cho đời nhiều vần thơ hay.

2..3.3 - Thơ Chế Lan Viên trong những năm kháng chiến chống Mĩ

Trong những năm kháng chiến chống Mĩ , Tổ quốc tươi đẹp và dân tộc anh hùng là cảm hứng chủ đạo của Chế Lan Viên, nhà thơ những muốn :

                                    Khi ta muốn thơ ta thành hầm chông giết giặc

                                    Thành một nhành hoa mát mắt cho đời

            Với Chế Lan Viên, chưa bao giờ Tổ quốc lại cao đẹp như những tháng năm kháng chiến chống Mĩ . Nhà thơ không ngần ngại khẳng định đó là “những ngày đẹp hơn tất cả”, “ngày vĩ đại”. Trong hoàn cảnh đó, vẻ đẹp tâm hồn và tính cách của dân tộc Việt Nam càng ngời sáng hơn. Nhà thơ tự hào, kiêu hănh viết :

                                    Ta đội triệu tấn bom mà hái mặt trời hồng

                                    Ta mọc dậy trước mắt ngh́n nhân loại

                                    Hai tiếng Việt Nam đồng nghĩa với anh hùng.

                                                                        ( Thời sự hè 72, b́nh luận )

            Hiện thực đời sống thời ḱ kháng chiến chống Mĩ đă tỏa nắng cho thơ Chế Lan Viên để nhà thơ có thêm nhiều vần thơ tràn đầy sức sống và sức hấp dẫn. Tâm hồn thơ Chế Lan Viên rộng mở hướng tới khắp mọi miền của Tổ quốc để nhạy bén thu nhận chất thơ của đời sống và ḥa nhịp sống của ḿnh với nhịp sống của dân tộc. Nhà thơ viết về những cuộc tiễn đưa ra trận với kỉ niệm của cái hôn “cân vạn ngày lửa đạn”và “ trầm tích trong bể sâu của nhớ”, là “chút thương nhớ giắt bên ḿnh cùng súng đạn”.

H́nh ảnh của cuộc sống chiến đấu gian khổ mà hào hùng đi vào thơ Chế Lan Viên ngày càng thêm đậm đà, sâu sắc. Nhà thơ tự hào viết những tên làng, tên núi, tên đường, tên sông gắn liền với những chiến công hiển hách như: Trường Sơn, đường Chín, ngă ba Đồng Lộc, Cồn Cỏ, Quảng B́nh, Vĩnh Linh … Nhà thơ cảm nhận cuộc sống hôm nay “mỗi tấc núi sông thành thơ và hóa sử ” và “các thế hệ nh́n chỗ ta đứng lúc này như những hải đăng”. Tất cả những điều đó chính  là chất vàng, chất ngọc của cuộc đời đă góp phần tạo cho Chế Lan Viên có được nhiều tứ thơ hay.

Trước hiện thực đời sống đó, nhà thơ nhận thức sâu sắc hơn về vẻ đẹp của Tổ quốc và sự gắn bó rất đỗi đằm thắm, thiết tha với Tổ quốc “như máu thịt, như mẹ cha ta như vợ như chồng” của con người Việt Nam :

                                    Ta yêu Việt Nam đẹp, Việt Nam thơ, bát ngát câu Kiều,

                                                                                                               bờ tre mái rạ …

                                    Mái đ́nh cong cong như bàn tay em gái vẫy giữa đêm chèo

                                    Cánh c̣ Việt Nam trong hơi mát xẩm xoan, c̣ lả,

                                    Cái đôn hậu nhân t́nh trong nét chạm chùa Keo …

                                                                                    (Thời sự hè 72, b́nh luận )

            H́nh ảnh của những bà mẹ, người chị, người vợ, “những chàng áo vải, những binh nhất, binh nh́ mười tám tuổi”… , đă đi vào thơ Chế Lan Viên với vẻ đẹp chân chất, b́nh dị và thật đáng tự hào. Cũng chính trong những năm tháng nước sôi lửa bỏng này, nhà thơ cảm nhận trọn vẹn hơn về vai tṛ to lớn của nhân dân:

                              Nhân dân không có một thanh gươm vung một cái đến trời mây

                              Nhưng họ gánh lịch sử đến ngh́n lần lớn hơn đời họ.

                                                                                    ( Thơ bổ sung )

            Càng yêu Tổ quốc, càng nhận thức sâu sắc bản chất của kẻ thù và những nỗi đau thương dân tộc phải trải qua, những khát khao về cuộc sống yên b́nh hạnh phúc, Chế Lan Viên đă sáng tạo nên những “nhành hoa mát mắt cho đời”. Đó là những h́nh ảnh “bắt ḷng ta nhớ măi” ở các bài thơ : Sông Cầu, Hoa ngày thường, Đi trong chùa Hương, Mây của em, Lau mùa thu, Kỉ niệm có ǵ … Cuộc sống không chỉ đ̣i hỏi Chế Lan Viên suy ngẫm, triết lí, mà c̣n giúp cho nhà thơ có được sự cảm xúc sâu lắng trước vẻ đẹp giản dị của đời sống hàng ngày qua những vần thơ viết về các loài hoa, về t́nh yêu đằm thắm thiết tha và sự ngọt ngào của cuộc sống hạnh phúc gia đ́nh qua các bài : Hoa thảo hoa vàng, Rét đầu mùa nhớ người đi phía bể, Chia, Cảm ơn, Con đi sơ tán, Đặt tên con …  

            Với t́nh cảm nồng nàn, trí tuệ sắc sảo và sự gắn bó sâu sắc với hiên thực đời sống chiến tranh, Chế Lan Viên đă sáng tạo được nhiều vần thơ xúc động đậm đà chất trữ t́nh, hùng ca về vẻ đẹp tâm hồn, tính cách của dân tộc Việt Nam trong kháng chiến chống Mĩ.

  2.3.4 - Thơ Chế Lan Viên từ sau 1975 đến khi qua đời

Những năm cuối đời, khi hoàn cảnh sống gặp không ít những khó khăn, nhưng Chế Lan Viên vẫn không ngừng sáng tạo. Mạch thơ về cuộc sống chống Mĩ vẫn tiếp tục vận động và phát triển với tầm nhận thức cao hơn, tầm nh́n xa rộng hơn. Mặt khác, cũng trong thời gian này, Chế Lan Viên trăn trở và suy ngẫm nhiều về cuộc sống đời thường, về bản thân để khẳng định chiều sâu thẳm trong tâm hồn ḿnh, “tự t́m ḿnh”.

Đặc biệt, nhiều bài thơ trong Di cảo, nhất là ở những bài thơ viết vào khoảng thời gian 1987, 1988, người đọc nhận thấy sự giăi bày, tự vấn chân t́nh của Chế Lan Viên. Tuy chỉ diễn ra trong khoảng thời gian ngắn cuối đời nhưng đó là sự tiếp tục của một nhà thơ luôn ư thức được vai tṛ quan trọng của nghệ thuật đối với cuộc sống và đó là quy luật muôn đời mà cuộc đời của Chế Lan Viên cũng không nằm ngoài quy luật đó.

Cũng v́ lẽ đó, đă bao nhiêu năm anh hát “giọng cao”, giờ đây “anh hát giọng trầm”. Đây không phải là sự đổi giọng đến bất ngờ như cảm nghĩ của một số người khi đến với Di cảo thơ. Sự tự nhận thức, nghiền ngẫm về bản thân đă giúp cho Chế Lan Viên không rơi vào sự “ảo tưởng”, ông quan niệm mỗi câu thơ đều phải vượt lên ḿnh và ông sống với sức mạnh của tấm ḷng nhân hậu, sự yêu đời, v́ thế, tâm hồn nhà thơ càng trở nên thanh cao hơn. trong cuộc sống hiện tại. Thật xúc động khi ông cảm nhận:

                                    Sau anh c̣n mênh mông nhân loại

                                    Đừng nghĩ ḿnh là người đi cuối

                                    Phải để lại dấu chân, nhành cây, viên sỏi …

                                    Cho người theo sau không cô đơn

                                                                                    ( Sau anh )

 

Chế Lan Viên nghĩ  nhiều về cái chết để “đừng tuyệt vọng”, để sống những ngày c̣n lại có ích cho mai sau. Đó cũng là sự biểu hiện tâm thế và lẽ sống cao quư của nhà thơ khi viết Từ thế chi ca để lại cho người đời bằng những lời thơ tâm huyết giàu chất triết lí :

                        Những bạn bè yêu anh sẽ gặp anh trong cỏ

                        Trong hạt sương, trong đá ...

                        Trong những ǵ không phải anh.

 

                        Anh tồn tại măi

                        Không bằng tuổi tên, mà như tro bụi,

                        Như ngọn cỏ tàn đến tiết lại trồi lên.                     

            Có thể nói, trên từng chặng đường sáng tác, ngay cả khi nằm trên giường bệnh Chế Lan Viên vẫn luôn sống hết ḿnh cho đời và cho thơ. Ông t́m ṭi, sáng tạo với khát vọng để lại cho người đọc những vần thơ mới mẻ, đặc sắc, và ông đă làm được điều đó.

3 – Chế Lan Viên với văn xuôi  

Top

            Phần này sinh viên đọc tài liệu và lưu ư các điểm sau :

- Chế Lan Viên viết tùy bút và bút kí ở những thời điểm quan trọng trong đời sống của dân tộc.

            - Tùy bút, bút kí của Chế Lan Viên thường đào sâu, mở rộng những vấn đề trong đời sống. Các vấn đề được đặt trong mối liên hệ nhiều mặt để từ đó phát hiện được nhiều điều mới mẻ của nó.

            - Tùy bút của Chế Lan Viên rất giàu chất thơ.

            - Chế Lan Viên phê b́nh thơ rất tinh tế và sắc bén. Cách phê b́nh thơ của Chế Lan Viên khác với Hoài Thanh, Xuân Diệu. Ông đi sâu vào tính dân tộc, tính thời đại của thơ, cách sáng tạo thơ, vị trí của thơ trong đời sống, ư nghĩa lớn lao của việc t́m ṭi đổi mới trong sáng tạo thơ …

4 – Phong cách nghệ thuật của Chế Lan Viên:  

Top

4.1 - Giàu chất trí tuệ, có sự thống giữa trí tuệ và cảm xúc

Trong suốt quá tŕnh sáng tạo thơ, Chế Lan Viên luôn có khát vọng “phát giác sự việc ở cái bề chưa thấy”, khám phá sự vật, hiện tượng “ở cái bề sâu, ở cái bề sau, ở cái bề xa” để từ đó đem lại nhiều vần thơ mới lạ, đặc sắc, gây cho người đọc sự bất ngờ, thú vị. 

Với trí tưởng tượng phong phú, sức liên tưởng ḱ diệu, cách nh́n sự vật trong sự đối lập và luôn tranh luận, đối thoại, Chế Lan Viên chiếm lĩnh được thực tại cuộc sống để từ đó có cách suy ngẫm, triết lí sâu sắc, cũng như sự khái quát chính xác về những vấn đề trong đời sống. 

Thơ Chế Lan Viên có cảm xúc đằm thắm thiết tha. Biết bao vần thơ của ông trở thành “nhành hoa mát mắt cho đời”. Thơ ông có khi mềm mại như lời ru của mẹ, như câu ḥ, điệu hát có sức ngân xa, thấm sâu trong t́nh cảm người đọc; có khi mang nặng nghĩa t́nh và những nỗi trăn trở, thao thức; có khi chất chứa sự suy tưởng triết lí về một vấn đề nào đấy trong cuộc sống … Có thể nói, cái tôi trữ t́nh rất chủ động và năng động ḥa nhập với mọi đối tượng để cảm xúc, suy luận, tranh luận, đối thoại. V́ lẽ đó, đến với thơ Chế Lan Viên, người đọc nhận thấy sự kết hợp hài ḥa giữa trí tuệ sắc sảo và cảm xúc nồng cháy mănh liệt. Sức sống và sức hấp dẫn của thơ Chế Lan Viên phần nào được bắt nguồn từ đó.

            Tuy nhiên, trong thơ Chế Lan Viên có khi cảm xúc và trí tuệ thiếu kết hợp hài ḥa, khi đó thơ ông rơi vào sự cầu ḱ, khó hiểu, xa lạ với t́nh cảm, nhận thức của người đọc.

4.2 - Thể hiện sự vật, hiện tượng ở các mặt đối lập

Chế Lan Viên luôn nh́n nhận sự vật từ nhiều mối liên hệ qua lại lẫn nhau, trong quá tŕnh vận động, biến đổi không ngừng, để từ đó nắm bắt và khái quát được bản chất của nó. Đặc biệt, ông có ư thức t́m kiếm, khám phá và làm nổi bật sự tương quan đối lập, cũng như những mối liên hệ giữa các mặt đối lập của hiện thực. Nguyễn Văn Hạnh khẳng định: “H́nh thức cơ bản phổ biến trong tư duy nghệ thuật của Chế Lan Viên là sự đối lập”. Nguyễn Xuân Nam quan niệm :“Nét nổi bật của tư duy nghệ thuật của Chế Lan Viên là sự đối lập. C̣n Nguyễn Văn Long cho rằng: “Tư duy thơ của Chế Lan Viên thường xem xét sự vật trong những mối quan hệ đối lập”.

Có thể nói, sự đối lập của sự vật và hiện tượng được Chế Lan Viên cảm nhận từ cái nh́n biện chứng. Chính t́nh yêu, sự gắn bó với cuộc sống, sự am hiểu sâu rộng nhiều phương diện của đời sống tự nhiên và xă hội, cũng như sự tài hoa thông minh và sắc sảo đă giúp Chế Lan Viên có được cách nh́n, cách nghĩ, cách t́m ṭi, khai thác những vấn đề của cuộc sống trong sự đối lập.

Ngay từ thuở viết Điêu tàn, nhà thơ đă thể hiện được cảnh “thái b́nh trong Chiêm Quốc” với cảnh đền xưa đổ nát”, “tháp gầy ṃn mong đợi”, “tượng chàm lở lói rỉ rên than”… , để qua đó gửi gắm nỗi đau về sự hủy diệt, nỗi buồn thương cho số phận của dân tộc trước cảnh đời hiện tại.

Trong cuộc sống xây dựng chủ nghĩa xă hội, Chế Lan Viên thường nói đến sự đối lập: giữa cái “nhỏ bé”, nhỏ hẹp”, “riêng tây” với cái rộng lớn “mênh mông”; giữa bóng đêm tăm tối, “đêm tàn” với “b́nh minh”, “chói ḷa ánh sáng”, “chói ḷa hào quang” hôm nay; giữa “lạnh lẽo” với “ấm áp”, giữa cái đói nghèo khổ đau với hạnh phúc; giữa “giọt lệ” với “lời ca”, “tiếng hát”, “nụ cười”, “nhành vui”; giữa “cay đắng”, “chua cay”, tủi cực với “ngọt ngào”, “đời hồng”; giữa cái “đá sỏi”, “cây cằn”, “ruộng đói mùa” với “phù sa”, “hoa trái mỡ màu”… Thông qua đó, nhà thơ nhằm ngợi ca, khẳng định những đổi thay lớn lao và ư nghĩa của dân tộc trong cuộc sống xây dựng chủ nghĩa xă hội .

Những năm chống Mĩ  cứu nước, Chế Lan Viên cảm nhận những vấn đề của cuộc sống trong sự đối lập : giữa cảnh “ḥa b́nh” với “chiến tranh”; giữa “đoàn viên”, “hội ngộ” với “chia li”, “từ tạ”; giữa “bể căm thù” với “bể yêu thương”, giữa “cánh đồng vàng óng ả”, “cửa sổ sơn hồng” với “pháp trường” và “những băi tha ma”; giữa “văn minh” với “dă man”; giữa “tồn tại” với “hủy diệt”; giữa sống với chết; giữa cái b́nh thường với phi thường; giữa “trong” với “đục”; giữa “nhớ” với “quên”… Bằng cách cảm nhận đó, nhà thơ lí giải và thể hiện được những phẩm chất cao đẹp của con người Việt Nam trong chiến tranh, cũng như vạch trần bản chất hung bạo và xảo quyệt của kẻ thù xâm lược.

Vào những năm cuối đời, khi thời gian c̣n lại của đời ḿnh cạn dần, khi căn bệnh hiểm nghèo đang tàn phá sức lực, và trong cảnh Viên Tĩnh Viên, Chế Lan Viên vẫn luôn trăn trở, thao thức về những ǵ đang diễn ra trong đời sống. Ông nh́n sự vật trong sự đối lập giữa “phía bên này” với “phía bên kia”; giữa quá khứ với hiện tại; giữa hiện tại với “mai sau”; giữa “héo tàn” với “sinh sôi”; giữa cảnh “hoa trái nghèo xuân sắc bỏ quên” với cuộc sống của “quyền lực”, “danh vọng”; giữa “mặt trời chói ḷa” với “ngọn đèn con con”,…  Từ cách nh́n, cách khám phá đó nhà thơ khẳng định lẽ sống cao đẹp giữa cuộc đời và biết sống hết ḿnh cho cuộc sống.    

Qua t́m hiểu thơ Chế Lan Viên, chúng tôi nhận thấy, nhà thơ thường chú trọng khai thác, suy ngẫm về các quan hệ đối lập giữa : quá khứ  - hiện tại, hiện tại – tương lai, quá khứ  - tương lai, cái riêng – cái chung, nhỏ bé – vĩ đại, cái bi – cái hùng, cái động – cái tĩnh, thấp hèn – cao cả, yêu thương - căm thù, niềm vui – nỗi đau, hạnh phúc – bất hạnh, ngọt ngào – cay đắng,  sống -  chết, c̣n – mất, ngày – đêm, ánh sáng – bóng tối, trần gian – địa ngục, thần – quỷ, ta – địch, dân tộc – nhân loại … Từ những mối quan hệ  đối lập đó, nhà thơ đă giúp cho người đọc có điều kiện thuận lợi để nhận thức rơ hơn về cuộc sống “ ở bề chưa thấy, ở cái bề sâu, ở cái bề sau, ở cái bề xa.

            Có thể nói, với cách tư duy và thể hiện trên, Chế Lan Viên đă luôn đem lại cho thơ một cách nói, cách thể hiện mới lạ. Những ư tưởng và t́nh cảm trong thơ Chế Lan Viên nhờ đó trở nên gợi cảm hơn và tạo được dấu ấn lâu bền hơn trong tâm hồn người đọc.

4.3 - Cảm nhận suy nghĩ những vấn đề của cuộc sống bằng thế giới h́nh ảnh phong phú, đa dạng

Sáng tạo h́nh ảnh là một trong những biện pháp hàng đầu mà Chế Lan Viên đă sử dụng để đem lại hiệu quả cao cho việc “tăng năng suất”cho thơ, nhằm góp phần tạo thêm sức hấp dẫn, bay bỗng cho ư tưởng và t́nh cảm trong thơ ông.

Thơ Chế Lan Viên có đủ loại h́nh ảnh, nhưng nổi bật nhất và tác động mănh liệt nhất đối với người đọc là h́nh ảnh vừa thực vừa ảo, h́nh ảnh tượng trưng, h́nh ảnh so sánh, h́nh ảnh ẩn dụ, h́nh ảnh liên kết thành một hệ thống …

Trước Cách mạng tháng Tám, Chế Lan Viên đă sớm bộc lộ tài năng sáng tạo h́nh ảnh thơ.  Ông  đă đưa đến cho người đọc h́nh ảnh của một thế giới đầy “sọ dừa, xương máu cùng yêu ma”…, về một hệ thống h́nh ảnh với nhiều màu sắc độc đáo, thấm đẫm nỗi đau đời.

Sau Cách mạng tháng Tám, h́nh ảnh thơ Chế Lan Viên mang vẻ đẹp của sự chân chất b́nh dị, đậm đà t́nh yêu quê hương, đất nước. Thông qua hệ thống h́nh ảnh, Chế Lan Viên đă giúp cho người đọc cảm nhận được hiện thực đời sống kháng chiến chống Pháp, chống Mĩ nhiều gian khổ hi sinh mà rất đỗi hào hùng của dân tộc, cũng như nhận thức sâu sắc hơn và có niềm tin yêu mănh liệt hơn về đời sống xây dựng chủ nghĩa xă hội.

Sự nhận thức về cuộc đời càng sâu sắc th́ h́nh ảnh thơ Chế Lan Viên càng đặc sắc và có thêm sự mới mẻ. Vẻ đẹp của thế giới h́nh ảnh thơ đă góp phần giúp cho người đọc cảm nhận trọn vẹn hơn hương sắc của đời. Nhiều phương diện đời sống được thể hiện qua h́nh ảnh thơ đă trở nên sinh động hơn.  

5 – Kết luận chung :  

Top

Chế Lan Viên là nhà thơ luôn có sự t́m ṭi, khám phá và sáng tạo. Ông luôn biết kế thừa, phát huy những tinh hoa của nền văn chương và nhân loại để mang lại cho tác phẩm của ḿnh một vẻ đẹp riêng. Ông có sự nhận thức sâu sắc về chức năng của văn chương và sứ mệnh thiêng liêng của người nghệ sĩ  đối với cuộc sống.

Thành tựu nghệ thuật Chế Lan Viên đă đạt được trong quá tŕnh sáng tạo chính là những đóng góp lớn lao đối với sự phát triển của thơ ca Việt Nam  nói riêng và văn chương Việt Nam nói chung.

HƯỚNG DẪN HỌC TẬP  

Câu hỏi ôn tập :

            1 - V́ sao nói sự xuất hiện của thơ Chế Lan Viên trên thi đàn “như một niềm kinh dị”?

            2 - V́ sao nói Điêu tàn, Aùnh sáng và phù sa, Di cảo thơ là những đỉnh cao trên con đường thơ của Chế Lan Viên?

            3 - Quan niệm thơ của Chế Lan Viên có những điểm chung và điểm riêng ǵ so với quan niệm thơ của Tố Hữu ?

            4 - Đặc điểm nổi bật nhất của tư duy thơ Chế Lan Viên là ǵ ?

            5 - Những đề tài nào được Chế Lan Viên khai thác và thể hiện thành công nhất?

             

Đề tài nghiên cứu và hội thảo:

            1 - Ư thức bản ngă của Chế Lan Viên qua các chặng đường thơ.

            2 - Những sáng tạo đặc sắc về h́nh ảnh thơ của Chế Lan Viên..

            3 - Trí tuệ và cảm xúc trong thơ Chế Lan Viên.

            4 - Giọng điệu thơ Chế Lan Viên.

            5 - Những sáng tạo của Chế Lan Viên ở thể thơ tứ tuyệt .

            6 - Đóng góp của Chế Lan Viên ở thể thơ văn xuôi.

 

Tài liệu tham khảo chính cần đọc:

     Các tập thơ, phê b́nh tiểu luận của Chế Lan Viên và các tài liệu sau:

            1 - Vũ Tuấn Anh (tuyển chọn và giới thiệu) - Chế Lan Viên về tác giả và tác phẩm, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2000.

2 - Nguyễn Lâm Điền - Đặc trưng nghệ thuật thơ Chế Lan Viên, Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh, 2001.

            3 - Hà Minh Đức - Chế Lan Viên trong sách Nhà văn Việt Nam (1945 - 1975), tập I, NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1979.

            4 - Nguyễn Văn Long (tuyển chọn và biên soạn), Nhà văn trong nhà trường, Chế Lan Viên, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2001.

            5 - Nguyễn Xuân Nam (giới thiệu), Vũ Thị Thường (tuyển chọn) - Tuyển tập Chế Lan Viên, tập I, NXB Văn học, Hà Nội, 1985.

     6 - Nguyễn Xuân Nam (tuyển chọn và giới thiệu), Tuyển tập Chế Lan Viên, tập II, NXB Văn học, Hà Nội, 1990.

            7 - Nguyễn Bá Thành - Chế Lan Viên với phong cách suy tưởng, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1999.

            8 - Lê Quang Trang - La Yên ( biên soạn, tuyển chọn) - Chế Lan Viên giữa chúng ta, NXB Giáo dục, Trung tâm nghiên cứu Quốc học, Hà Nội, 2000.


PreviousIndexNextHome