VĂN
HỌC VIỆT NAM 1955 -1975
TÔ
HOÀI
1
– Vài nét về tiểu sử và con người
2
– Những chặng đường sáng tác:
3
– Phong cách nghệ thuật của Tô Hoài:
VĂN
HỌC VIỆT NAM 1955 -1975
TÔ
HOÀI
Tô
Hoài tên thật là Nguyễn Sen sinh ngày 07 – 9 - 1920 tại
làng Nghĩa Đô, phủ Hoài Đức - tỉnh Hà
Đông (nay là phường Nghĩa Đô - quận Cầu
Giấy - Hà Nội) trong
một gia đ́nh thợ thủ công. Ông c̣n có nhiều bút
danh khác như: Mai Trung, Duy Phương, Mắt Biển,
Hồng Hoa, Vũ Đột Kích,…
Quê
quán : xă Kim An - huyện Thanh Oai - tỉnh Hà Tây.
Tuổi
thanh niên, Tô Hoài phải trải qua nhiều nghề khác
nhau để kiếm sống như : dạy học tư,
bán hàng, làm kế toán cho hiệu buôn, …
Năm 1938, ông chịu ảnh hưởng của
Mặt trận B́nh dân và tham gia hoạt động trong
tổ chức Hội ái hữu thợ dệt và Thanh niên
dân chủ Hà Nội.
Năm
1943, Tô Hoài gia nhập Hội văn hóa cứu quốc và
bắt đầu viết bài cho báo Cứu
quốc và Cờ giải phóng.
Sau Cách mạng tháng
Tám, Tô Hoài làm Chủ nhiệm báo “Cứu quốc”. Ông là một trong số
những nhà văn đầu tiên Nam tiến và tham dự
một số chiến dịch ở mặt trận phía Nam
(Nha Trang, Tây Nguyên…). Năm 1946, ông được kết
nạp vào Đảng.
Năm
1950, ông về công tác tại Hội Văn nghệ
Việt Nam. Từ năm 1957 đến năm 1980, Tô Hoài
đă kinh qua nhiều chức vụ khác nhau trong Hội Nhà
văn như : Uûy viên Đảng Đoàn, Phó Tổng thư
kí, Chủ tịch Hội Văn nghệ Hà Nội, Giám
đốc Nhà xuất bản Thiếu nhi.
Đến với con đường nghệ thuật
từ cuối những năm ba mươi cho đến
nay, Tô Hoài đă sáng tác được một số lượng
tác phẩm đồ sộ (hơn một trăm năm mươi
đầu sách) ở nhiều thể loại khác nhau như
: tiểu thuyết, truyện ngắn, kí, tiểu luận và
kinh nghiệm sáng tác. Với những đóng góp to lớn
cho nền văn học nước nhà, vào năm 1996 ông
được nhà nước tặng giải thưởng
Hồ Chí Minh.
* Tác phẩm của Tô
Hoài trước Cách mạng tháng Tám :
Dế mèn phiêu lưu kí
(1941), Quê người (1941), O
chuột (1942), Giăng
thề (1943), Nhà nghèo (1944), Xóm
Giếng ngày xưa (1944), Cỏ
dại (1944).
* Tác phẩm chính
của Tô Hoài sau Cách mạng tháng Tám :
- Truyện ngắn : Núi cứu quốc (1948), Xuống
làng (1950), Truyện Tây
Bắc (1953, Giải nhất tiểu thuyết năm 1956
của Hội Văn nghệ Việt Nam), Khác
trước (1957), Vỡ tỉnh (1962), Người
ven thành (1972).
- Tiểu thuyết : Mười năm (1957), Miền
Tây (1967, Giải thưởng Bông sen vàng năm 1970
của Hội Nhà văn Á Phi), Tuổi
trẻ Hoàng Văn Thụ (1971), Tự
truyện (1978), Những ngơ phố, người đường
phố (1980), Quê nhà (1981, Giải A năm 1980 của giải thưởng
Hội Văn nghệ Hà Nội), Nhớ
Mai Châu (1988).
- Kí: Đại đội Thắng B́nh (1950), Thành
phố Lênin (1961), Tôi thăm
Cămphuchia (1964), Nhật kí
vùng cao (1969), Trái đất
tên người (1978), Hoa
hồng vàng song cửa (1981). Cát
bụi chân ai (1992).
- Truyện thiếu nhi : Tuyển
tập Văn học thiếu nhi, tập I & II (1999)
- Tiểu luận và kinh nghiệm sáng tác : Một
số kinh nghiệm viết văn của tôi (1959), Người
bạn đọc ấy (1963), Sổ
tay viết văn (1977), Nghệ
thuật và phương pháp
viết văn (1997).
Tô Hoài có nhiều tác phẩm được dịch
ra tiếng nước ngoài, đặc biệt Dế
mèn phiêu lưu kí được dịch ra nhiều
thứ tiếng nhất.
Nh́n chung, Tô Hoài là một nhà văn sớm bước
vào đời, vào nghề văn và cũng sớm tham gia
hoạt động cách mạng. Ông viết ở nhiều
thể loại và thể loại nào ông cũng đạt
được những thành công đặc sắc. Đặc
biệt là ở những tác phẩm viết về loài
vật và miền núi Tây Bắc. Tô Hoài luôn có những
cố gắng t́m ṭi, khám phá trong sáng tạo nghệ
thuật, đó là một trong những yếu tố góp
phần làm nên sức hấp dẫn, sức sống và ư
nghĩa lâu bền ở tác phẩm của ông đối
với đời sống tinh thần của người
đọc nhiều thế hệ.
2.1
– Trước Cách mạng tháng Tám:
Tô Hoài
đến với nghề văn ở tuổi mười
bảy, mười tám. Những sáng tác đầu tay
của ông được đăng trên Hà
Nội tân văn và Tiểu
thuyết thứ bảy. Tuy xuất hiện ở giai
đoạn cuối của thời ḱ 1930 - 1945 nhưng Tô
Hoài đă sớm khẳng định được
vị trí của ḿnh trong đội ngũ nhà văn
thời ḱ này bằng một loạt tác phẩm độc
đáo, đặc sắc như : Dế
mèn phiêu lưu kí (1941), Quê người (1941), O chuột
(1942), Trăng thề (1943) Nhà nghèo (1944 ). Từ các tác phẩm này, người
đọc dễ nhận thấy sức sung măn dồi dào
trong lao động nghệ thuật của ông. Sau này, Tô
Hoài đă bộc bạch chân thành qua Tự
truyện về việc ông đến với nghề văn,
ông viết : “Tôi vào nghề văn có trong ngoài ba năm
trước Cách mạng tháng Tám, 1945 mà tôi viết như
chạy thi được năm truyện dài, truyện
vừa, ba tập truyện ngắn, c̣n truyện thiếu
nhi như Dế mèn th́ mấy chục truyện, cái in, cái
chưa in, vương văi lung tung tôi không nhớ hết. Cũng
chẳng có ǵ lạ. Viết để kiếm miếng
sống lúc ấy tất phải cuốc khỏe như
vậy đấy”.
Tác phẩm
của Tô Hoài trước cách mạng có thể phân thành
hai loại chính là : truyện về loài vật và
truyện về nông thôn trong cảnh đói nghèo.
Qua
những truyện về loài vật tiêu biểu như : O
chuột, Gă chuột bạch, Tuổi trẻ, Đôi ghi
đá, Một cuộc bể dâu, Mụ ngan, Đực...,
người đọc nhận thấy, nhà văn thường
viết về cái tốt đẹp, khẳng định cái
thiện trong cuộc sống, bày tỏ mong muốn một
cuộc sống hạnh phúc, b́nh yên trong xă hội,
một cuộc sống tốt đẹp mang tính không tưởng.
Trước
hết, với Dế Mèn phiêu
lưu kí, tài năng nghệ thuật của Tô Hoài
được bộc lộ ở nhiều phương
diện. Bằng cách quan sát, cái nh́n tinh tế về loài
vật, kết hợp với những nhận xét thông
minh, hóm hỉnh, nhà văn đă lôi cuốn các em vào
thế giới loài vật bé nhỏ gần gũi, hấp
dẫn và ḱ thú qua h́nh ảnh của: Dế Mèn, Dế Trũi
như anh em kết nghĩa vườn đào, sẵn sàng
quên ḿnh v́ bạn, v́ nghĩa lớn. Xiến Tóc trầm
lặng, vừa yêu đời vừa chán đời.
Chị Cào Cào ồn ào và duyên dáng. Bọ Ngựa kiêu căng,
ngạo mạn. Cóc huênh hoang, dở hơi. Ếch thông thái
giả. Anh chàng Kỉm Ḱm Kim hèn đớn. Cậu công
tử bột Chim Chả Non có mẽ mà đầu óc
lại rỗng tuếch,... Từ đời sống và tích
cách của từng con vật, nhà văn nhằm bày tỏ
quan niệm của ḿnh về nhân sinh, về khát vọng
chính đáng của người lao động, về
một cuộc sống ḥa b́nh, yên vui, về t́nh thương,
ḷng chân thành và sự đoàn kết. Bởi thế câu
chuyện về chú Dế Mèn không chỉ có ư nghĩa dành
cho trẻ em, mà c̣n cả cho người lớn và cho
cả xă hội. Nó thực sự mang giá trị lâu
bền trong đời sống tinh thần của con người,
cũng v́ thế, dù ở đâu và ở thời ḱ nào,
người đọc vẫn t́m thấy bao điều thú
vị, bao bài học ư nghĩa từ tác phẩm này. Sau này,
Tô Hoài tâm sự: “Cách hiểu thế giới đại
đồng của Dế Mèn, Dế Trũi, Xiến Tóc…
là cách hiểu chủ nghĩa cộng sản của tôi
với vẻ đẹp và cả cái trống rỗng
thiếu sót trong suy nghĩ của
tôi”.
Viết về loài
vật, Tô Hoài đă dành khá nhiều trang để
thể hiện chân thật, sinh động họ nhà
chuột. Các chủng loại chuột như : chuột
nhắt, chuột cống, chuột cộc, chuột
bạch, chuột xù..., xuất hiện trong các tác phẩm
của ông với những đặc điểm, thói quen
riêng và cả những mối quan hệ của chúng. Trong
số những truyện viết về chuột th́
truyện Gă chuột bạch
đă để lại cho người đọc bao điều
suy nghĩ. Cuộc sống của vợ chồng chuột
bạch là “vẩn vơ t́m những hạt gạo
tẻ mà người ta rắc vào một cái đĩa
ở đáy lồng”, là “đánh ṿng”, dựa vào
lồng “ngủ đứng”. Ngay cả khi có dịp ra
khỏi lồng chúng vẫn không lấy ǵ làm thích thú mà
“ngơ ngác nh́n quanh quẩn. Như là họ hít phải
cái không khí lạ. Như là họ hít phải cái không khí
lạ. Như là họ chẳng quen ḅ giữa nơi khoáng
đăng. Và họ lại nối đuôi nhau , tha thẩn, từ
từ ḅ vào, cũng như lúc ḅ ra”. Có thể nói,
qua cảnh sống của vợ chồng chuột bạch,
Tô Hoài đă phê phán cách sống nhàm chán, buồn tẻ
và vô vị, cũng như tâm lí chấp nhận, lệ
thuộc của một lớp người trong xă hội,
đồng thời muốn thức tỉnh những ai
đang lâm vào cảnh sống đó.
Nhiều loài vật khác qua cách miêu tả của Tô
Hoài tạo cho người đọc dấu ấn lâu
bền. Đó là gă mèo mướp “lừ đừ nghiêm
nghị tựa một thầy ḍng, trên ḿnh có khoác bộ
áo thâm. Hắn có cái cốt cách quư phái và trưởng
giả. Lúc nào cũng nghĩ ngợi như sắp mưu
toan một việc ǵ ghê gớm lắm”. Đó là
cậu gà trống gi “bé nhỏ sống côi cút một thân,
một ḿnh” thuở nhỏ, nhưng khi lớn lại có
“bộ mặt khinh khỉnh ta đây” và cũng rất
đa t́nh, “có tật mê gái, như cái tính chung của loài
gà - cả của loài người - khi mới lớn lên”,
bỏ nhà ra đi v́ ái t́nh, hay dễ quên đi ái t́nh cũ
để “lần ṃ đi t́m một vài ái t́nh khác”.
Với chàng gà chọi “nhất sinh chỉ có một
nghề đi đánh lẫn nhau cho người ta xem”,
“lúc nào cũng chỉ ngứa ngáy chân tay”, quả không
đủ chữ nghĩa để “tả cái oai lẫm
liệt của chàng”. Chàng ta không thiết ǵ đến
con cái, trong đầu “chỉ đen những ư t́nh ma
chuột”, hay “đi ve gái”, thế mà khi Một
cuộc bể dâu xuất hiện, họ nhà gà chết
dần, chết ṃn, chàng gà chọi dù anh hùng, lẫm
liệt nhưng rồi cũng “tắc thở” để
lại “một ḿnh chị mái già, ra lại vào, ngẩn
ngơ”. Với vợ chồng Đôi
gi đá “tựa vợ chồng quê mới rủ nhau lên
tỉnh. Họ lờ khờ, ngẩn ngơ, xấu xí -
nghĩa là đặc nhà quê”. Chúng cần mẫn xây
tổ ấm, sống hạnh phúc, “b́nh lặng, chịu
khó, ít ồn ă”, chờ ngày đẻ trứng, chờ
ngày trứng nở, chờ những đứa con lớn lên
từng ngày... Thế rồi, Tết đến, tiếng
pháo nổ đón xuân về vô t́nh đă làm tan tác gia
đ́nh chúng. Nghe tiếng pháo “kinh khủng nổ vang
động trong cây, cả nhà cuống cuồng bay đi”.
Cuộc sống của đôi vợ chồng chim gi đá
rồi sẽ như thế nào trong cảnh tan tác đó
đă khiến cho người đọc phải ngậm
ngùi, xót xa. C̣n Mụ ngan
với “cái tính ngu tối, chậm chạp” đến
mức những đứa con của ḿnh gặp nạn,
hay bị chết vẫn vô t́nh, thản nhiên. Kể
cả khi bị đá, bị đuổi đánh,“bị
bỏ tù” th́ “chúng vẫn không hiểu chi”. Hơn
thế nữa khi “chồng mụ” bị làm thịt,
mụ vẫn “thản nhiên”, mụ ngan chỉ nhớ rơ
“khi có hạt ngô đo đỏ, hạt thóc vàng vàng, tàu
lá xanh xanh th́ xô đến mà khởi sự ăn”.
Cùng
với h́nh ảnh của những loài vật trên là
của chú chó Đực ham vui, “la cà” với “hàng tá nhân t́nh”
nên bị người ta thiến. Đực “buồn
thỉu, buồn thiu, đi lừ khừ quên cả ăn
uống”. Tuổi xuân của Đực qua nhanh, nó
trở nên “lạnh lùng với cuộc đời và
lạnh lùng với tháng ngày”, nó “lặng lẽ
sống cái cuộc đời tàn cục buồn thiu”,
“héo hắt dần”. Tác phẩm kết thúc với
sự xuất hiện của một con chó khác cũng
“khỏe và béo lẳn” nhưng rồi thân phận
của nó chắc ǵ đă khác với con Đực.
Tóm
lại, thế giới loài vật trong tác phẩm của
Tô Hoài thật độc đáo. Thế giới ấy
gợi lên ở người đọc sự liên tưởng
về nhiều vấn đề trong đời sống xă
hội. Có lẽ, từ trước cho đến nay, trong
văn học Việt Nam chưa có nhà văn nào viết
về loài vật nhiều và đặc sắc như Tô
Hoài.
Bên
cạnh truyện viết về loài vật, mảng
truyện viết về cảnh sống đói nghèo cũng
được nhà văn đă miêu tả chân thật và
sinh động. Cuộc sống cùng quẫn bế tắc
của những kiếp người nghèo khổ, lang thang,
phiêu bạt nơi đất khách quê người,
những người thợ thủ công bị phá sản
xuất hiện dần qua từng trang sách với tất
cả niềm cảm thông chân thành của nhà văn.
Đó là thân phận của bà lăo Vối trong truyện Mẹ
già buộc ḷng nhẫn nhục sống nương
nhờ vào con. Chỉ v́ một con lợn sổng
chuồng mà bà bị chính con gái ḿnh chửi rủa ch́
chiết đủ điều. Với cách nghĩ của
con gái bà th́ bà chẳng khác ǵ người đi ở mướn,
chị ta đă quát : “Thế tôi nuôi bà để làm ǵ
mà bà lại không trông được con lợn?”,
thậm chí, không cho bà ngủ ở nhà trên mà đuổi
bà xuống bếp nằm ngủ ở đống rơm.
Sáng ngày hôm sau cả nhà ăn uống nhưng h́nh như
họ đă quên là có bà hiện diện trong cuộc
sống của gia đ́nh ḿnh. Đó là số phận
của chị Hối trong truyện Ông
cúm bà co, bị ốm nhưng không có thuốc men
chữa chạy, rồi bệnh nặng dần v́ kém
hiểu biết, mê tín, kết cục phải “ra đồng”
bỏ lại mấy đứa con thơ dại. Đó c̣n
là tấn bi kịch của anh Gà Gáy trong truyện ngắn
cùng tên. Từ đâu lưu lạc tới không ai rơ,
chịu khó làm ăn cho đến khi có một “gia đ́nh
nho nhỏ, đề huề sống yên vui” ... Thế nhưng,
v́ cơn ghen vô cớ của anh khiến người
vợ bỏ đi biệt tích. Đứa con, niềm an
ủi duy nhất đối với anh ngă bệnh, hết
tiền chạy chữa, trong lúc khốn cùng đành
liều đi ăn trộm để rồi bị
bắt, cùng lúc đó đứa con cũng chết. Từ
đó “Gà Gáy sống c̣m cơi một ḿnh”. Cay đắng
hơn là số phận của bé Gái trong cảnh Nhà nghèo. Nó sinh ra trong gia đ́nh nghèo khổ, túng
thiếu và nhiều lần chứng kiến cảnh cha
mẹ căi nhau. Nó bị rắn cắn chết trong khi cùng
với cha mẹ cố t́m miếng ăn cho gia đ́nh,
“người nó có bao nhiêu xương sườn, giơ
hết ra cả”. Cảnh đó thật xót xa, thê
thảm.
C̣n
biết bao những cảnh đời khác như cảnh Hương
Cay trốn nợ trong Khách
nợ, cảnh xung đột của gia đ́nh anh
Hối trong Buổi chiều
ở trong nhà, cảnh t́nh duyên của cô Lụa trong Lụa,... Tất cả cảnh đời của
họ đều gợi cho người đọc bao điều
suy ngẫm và nỗi trăn trở về hiện thực
cuộc sống nhiều bất hạnh đó.
Đáng chú ư ở thời ḱ này, Tô Hoài cũng có
những khát vọng thoát khỏi bế tắc, thoát
khỏi cuộc sống nhàm chán buồn tẻ và vô
vị, hay ước mơ của môt chàng trai về
“một trận mưa rào cho ḷng người hả hê và
cho trời quang đăng” và
hăy cất bước vào một buổi mai, nhắm
về phía “chân trời mới đỏ thắm màu hi
vọng”, mặc dù v́ nghèo nên anh không lấy được
người ḿnh yêu. “Sự nghiệp anh không có”, “nhà
anh thanh bạch quá”, “bấy nay anh chỉ có một
tấm ḷng”(Xóm Giếng ngày
xưa ).
Tóm
lại, trước Cách mạng tháng Tám, Tô Hoài đă có
khi bế tắc trước cuộc đời nhưng
cuối cùng nhà văn vẫn đứng vững ở
vị trí của một nhà văn hiện thực. Tâm
hồn của Tô Hoài bao giờ cũng có được
vẻ đẹp trong sáng, đáng trân trọng trong
cảnh đời đen tối thời ḱ này. Ở đề
tài nào và đối tượng khám phá nào, thế
giới nghệ thuật của Tô Hoài trước cách
mạng đều thấm đượm tính nhân văn và
mang dấu ấn khá sâu đậm về một quăng
đời của ông. Ông quan niệm :“ Những sáng tác
của tôi đều miêu tả tâm trạng tôi, gia đ́nh
tôi, làng tôi, mọi cái của ḿnh quanh ḿnh. Những nghèo
đói, cùng túng, đau đớn. Phần nào nhẹ nhàng
hay xót xa, hay ngịch ngợm và đá chút khinh bạc là
phần nào con người và tư tưởng tiểu tư
sản của tôi”(Một quăng
đường).
2.2
– Sau Cách mạng tháng Tám:
Sau Cách
mạng tháng Tám, Tô Hoài có sự chuyển biến
mạnh mẽ về tư tưởng và sáng tác. Tâm
trạng trăn trở, phân vân định hướng không
dừng lại quá lâu ở Tô Hoài. Ông đă nhanh chóng
chiếm lĩnh hiện thực cuộc sống và sáng
tạo thành công nhiều tác phẩm có giá trị ở các
thể loại loại khác nhau. Trong đó, tiểu
thuyết Miền Tây của
ông đạt giải thưởng Bông sen vàng của
Hội Nhà văn Á Phi vào năm 1970.
Bước
chuyển trong sáng tác của Tô Hoài được thể
hiện rơ ở cả chủ đề và đề tài.
Tô Hoài không bó hẹp nội dung và đối tượng
phản ảnh trong phạm vi của một vùng dân nghèo
ngoại thành Hà Nội nơi ông từng gắn bó, mà ông
c̣n hướng đến một không gian rộng lớn,
đến với cuộc sống của nhiều lớp
người, nhiều vùng đất khác nhau, nổi
bật nhất là miền núi Tây Bắc. Tây Bắc không c̣n
là miền đất xa lạ, nó đă trở thành quê hương
thứ hai của Tô Hoài. Ông viết về Tây Bắc không
chỉ bằng tài năng nghệ thuật, vốn sống
phong phú, mà c̣n bằng cả t́nh yêu đằm thắm
thiết tha như chính quê hương ḿnh. Bởi lẽ,
với Tô Hoài: “Đất nước và người
miền Tây đă để thương, để nhớ
cho tôi nhiều quá”, h́nh ảnh Tây Bắc “lúc nào cũng
thành nét, thành người, thành việc trong tâm trí tôi”,
nó có sức ám ảnh mạnh mẽ khơi dậy
nguồn cảm hứng sáng tạo và thúc đẩy nhà văn
viết thành công nhiều tác phẩm về miền đất
này. Trên cơ sở đó, có thể xem ông là nhà văn
của miền núi Tây Bắc, là một trong những người
đặt nền móng cho nền văn học viết
về đề tài Tây Bắc.
Tác phẩm đầu tiên của Tô Hoài viết
về miền núi là tập truyện Núi
Cứu quốc(1948).
Ở tác phẩm này ông đă thể hiện được
cảnh sống vất vả, thiếu thốn, nhưng giàu
nghĩa t́nh đối với cách mạng, cũng như
ư chí quyết tâm chiến đấu của đồng bào
miền núi. Tuy nhiên, tác phẩm này c̣n nặng về
thể hiện, miêu tả các tài liệu, bề mặt
của vấn đề mà ít đi vào khám phá chiều sâu,
bản chất của nó để rồi “chết ch́m
trong tài liệu” như nhà văn đă tâm sự trong Một
số kinh nghiệm viết văn của tôi. V́
thế, tác phẩm trên c̣n thiếu sự sinh động,
thiếu sức hấp dẫn đối với người
đọc.
Phải đến Truyện Tây Bắc, Tô Hoài mới có được
sự thành công đặc sắc ở mảng đề
tài về miền núi Tây Bắc. Bằng tài năng
nghệ thuật và vốn sống phong phú về Tây
Bắc, ông đă thể hiện được một cách
chân thật, sinh động những nỗi đau thương,
khổ nhục của họ dưới ách áp bức
nặng nề của kẻ thù thực dân phong kiến.
Tập Truyện Tây Bắc gồm ba truyện: Mường
Giơn, Cứu đất cứu mường, Vợ
chồng A Phủ. H́nh ảnh người lao động
miền núi Tây Bắc nghèo khổ, mà nhất là người
phụ nữ trong tập truyện này được Tô Hoài
miêu tả với tất cả niềm cảm thông sâu
sắc. Cảnh đời của Mị, một cô dâu
gạt nợ chết dần, chết ṃn trong địa
ngục trần gian của nhà thống lí Pá Tra, hay thân
phận của cô Aûng, từ cô gái có vẻ đẹp
nổi tiếng ở Mường Cơi bị xem như món
đồ chơi qua tay nhiều quan châu, quan lang, chúa đất
cho đến khi tàn tạ trở thành bà lăo Ảng ăn
mày..., đă để lại cho người đọc
biết bao điều suy nghĩ về cuộc sống
đắng cay, tủi nhục của người phụ
nữ Tây Bắc dưới sự đè nén áp bức
nặng nề của thực dân và phong kiến ở
miền núi. Mặt khác, qua tập truyện trên, Tô Hoài
đă khẳng định, ngợi ca những phẩm
chất tốt đẹp của người miền núi Tây
Bắc, cũng như lí giải thành công về con
đường tất yếu họ phải t́m đến
để thoát khỏi cuộc sống bị đọa
đày áp bức đó là con đường cách mạng.
Có thể nói, Truyện Tây Bắc đánh dấu một bước
ngoặt quan trọng trên con đường sáng tạo
nghệ thuật, và bộc lộ sự nhận thức
đúng đắn của Tô Hoài về mối quan hệ
giữa nghệ thuật với cách mạng.
Tài năng nghệ thuật của Tô Hoài khi viết
về miền núi càng về sau càng
được phát huy và khẳng định qua
nhiều tác phẩm khác từ sau 1955 như : Miền
Tây, Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ, Họ Giàng ở Ph́n
Sa, Nhớ Mai Châu,... Nhà văn tiếp tục ngợi ca
phẩm chất tốt đẹp của các dân tộc
ở miền núi Tây Bắc trong đời sống kháng
chiến và xây dựng chủ nghĩa xă hội thông qua
những h́nh ảnh thực như : Hoàng Văn Thụ (dân
tộc Tày), Kim Đồng (dân tộc Nùng), Giàng A Thào,
Vừ A Dính (dân tộc Hmông)... Tất cả họ đều
thủy chung, gắn bó son sắt với cách mạng và
cuộc đời mới. Nhiều người đă ngă
xuống v́ cuộc sống b́nh yên, hạnh phúc cho quê hương
đất nước. Chủ nghĩa anh hùng cách mạng
Trong
số tác phẩm viết về miền núi Tây Bắc sau
1955 của Tô Hoài, tiểu thuyết Miền
Tây là tác phẩm nổi bật nhất. Miền
Tây có cốt truyện xoay quanh sự đổi đời
của gia đ́nh bà Giàng Súa nhờ cách mạng. Cách
mạng đă đem lại cho gia đ́nh bà nhiều
niềm vui giản dị trong cuộc sống đời thường.
Các con bà như Thào Khay, Thào Mị đă trở thành cán
bộ gương mẫu góp phần làm nên sự đổi
thay trong cuộc sống cho quê hương Tây Bắc. Bên
cạnh đó, với Miền Tây, Tô Hoài đă có thêm những nét
mới về nghệ thuật trong cách triển khai cốt
truyện, dựng cảnh, cách khai thác các chi tiết
nghệ thuật, và nhất là việc xây dựng thành công
một số nhân vật mang tính điển h́nh tạo nên
ở người đọc dấu ấn sâu bền như
: Giàng Súa, Thào Khay, Vừ Sóa Tỏa. Đặc biệt,
nhà văn có sự kết hợp hài ḥa bút pháp hiện
thực và bút pháp lăng mạn trong quá tŕnh sáng tạo. Chính
điều này đă góp phần làm nên vẻ đẹp
rất chân thật mà cũng rất giàu chất thơ
mộng lăng mạn cho Miền
Tây.
Sống
trong cuộc đời mới, nhà văn Tô Hoài cũng “ôn
chuyện cũ”, ng̣i bút của ông hướng về xă
hội trước Cách mạng tháng Tám từ cách nh́n,
sự suy ngẫm sâu sắc hơn theo thời gian và
những trải nghiệm trong cuộc sống. Ở
tiểu thuyết Mười năm,
với tầm nhận thức mới và từ chỗ
đứng của cuộc sống hiện tại nhiều
đổi thay mang ư nghĩa lớn trong đời sống
dân tộc, Tô Hoài đă phản ảnh chân thật và
sinh động hơn cảnh sống bi thảm, đói nghèo,
cùng quẫn ở một vùng quê ven đô, nơi mà nhà văn
đă chứng kiến và trải qua cùng với bao số
phận khác. Đồng thời, qua Mười năm, nhà văn cũng thể
hiện được quá tŕnh giác ngộ cách mạng
của quần chúng cũng như sức mạnh của
họ trong các phong trào đấu tranh chống lại
sự áp bức bóc lột của chế độ
thực dân phong kiến. Đi đầu trong phong trào
đấu tranh là lớp thanh niên như Lạp, Trung, Lê,
Ba,... Họ tiếp thu ánh sáng lí tưởng mới, và hăng
hái nhiệt t́nh tham gia các hoạt động để
đem lại sự đổi thay cho cuộc sống.
Ở
Mười năm, c̣n
một số chi tiết có thể gạt bỏ để
tác phẩm có thể hoàn thiện hơn, nhưng điều
cần nhận thấy, ở tác phẩm này Tô Hoài
với tầm nhận thức mới đă phát huy
được sự sắc sảo trong cách quan sát và bút
pháp thể hiện.
Sau
tiểu thuyết Mười năm,
Tô Hoài c̣n viết nhiều tác phẩm khác về ngoại
thành Hà Nội như : Quê người, Quê nhà, Những ngơ phố, người
đường phố, và gần đây là Chuyện
cũ Hà Nội (hai tập). Điều đó cho
thấy vốn sống, nguồn tư liệu, cũng như
nguồn cảm hứng sáng tác của Tô Hoài về Hà
Nội vô cùng phong phú đa dạng. Từ các tác phẩm
viết về Hà Nội của ông, người đọc
có điều kiện hiểu hơn về phong tục,
nếp sinh hoạt, tên gọi phố phường, con người
Hà Nội trải dài suốt cả thế kỉ XX trong
cuộc sống đời thường và cả trong
chiến tranh.
Không chỉ thành công ở thể loại truyện
ngắn và tiểu thuyết, Tô Hoài c̣n đạt
được thành tựu đặc sắc ở thể
kí. Nhiều tác phẩm kí của ông xuất hiện sau
những chuyến đi lên Tây Bắc như Nhật
kí vùng cao, Lên Sùng Đô, hay đi thăm nước
bạn như Tôi thăm Cămpuchia,
Thành phố Lênin, Hoa hồng vàng song cửa,... Đặc
biệt, Tô Hoài có các tập hồi kí gắn liền
với bao nỗi vui buồn và mơ ước của
tuổi thơ, bao kỉ niệm về những bạn văn,
đời văn của ông như Tự
truyện, Cát bụi chân ai, Chiều chiều. Từ các
tập hồi kí này, người đọc có điều
kiện để hiểu thêm về phong cách nghệ
thuật, thân phận, nhân cách nhà văn trong hành tŕnh văn
chương của ông và một số nhà văn khác. Cách
viết hồi kí của Tô Hoài rất linh hoạt
biến hóa, các sự kiện được khai thác theo
mạch liên tưởng và đan xen lẫn nhau nên luôn
tạo được sức hấp dẫn đối
với người đọc không thua kém ǵ so với
thể loại khác.
Bên
cạnh những mảng sáng tác trên, Tô Hoài c̣n tiếp
tục viết khá nhiều tác phẩm cho thiếu nhi như
: Con mèo lười, Vừ A Dính,Đảo
hoang, Chuyện nỏ thần, Nhà Chử,… Ở
mảng sáng tác này, ngay cả khi tuổi tác không c̣n
trẻ Tô Hoài vẫn có được cách cảm
nhận và thể hiện đời sống qua trang văn
phù hợp với tâm hồn, nhận thức của
tuổi thơ, để cùng các em đến với
một thế giới biết bao điều ḱ thú. Trên cơ
sở đó góp phần bồi đắp vẻ đẹp
và sự trong sáng, cao cả cho tâm hồn trẻ thơ.
Tóm lại: Những sáng tác của Tô Hoài sau Cách
mạng tháng Tám đă khẳng định được
vị trí và tài năng nghệ thuật của ông trước
hiện thực của cuộc đời mới. Ông
xứng đáng là một tấm gương trong sáng trong
lao động nghệ thuật để góp phần xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
3.1
- Không gian nghệ thuật và đối tượng khám
phá, thể hiện rất tập trung.
Tác
phẩm của Tô Hoài viết chủ yếu về hai
địa bàn: vùng ngoại thành Hà Nội và miền núi
Tây Bắc. Đối tượng được Tô Hoài
khai thác nhiều nhất, thành công nhất trong tác phẩm
của ông là cuộc sống của người lao động
đói nghèo ở ngoại thành Hà Nội và miền núi Tây
Bắc.
Bên
cạnh đó, Tô Hoài là một trong số ít nhà văn
Việt Nam có sở trường viết truyện về
loài vật. Thế giới loài vật phong phú, đa
dạng được nhân hóa xuất hiện trong tác
phẩm của ông luôn có sức hấp dẫn đối
với người đọc, giúp họ nhận ra sự
sinh tồn tự nhiên của xă hội loài vật đó.
Có
thể nói, những tác phẩm tiêu biểu nhất trên
con đường văn chương của Tô Hoài cũng
không nằm ngoài không gian nghệ thuật và đối tượng
khám phá, thể hiện nói trên.
3.2
- Lối viết đậm đà màu sắc dân tộc
Đặc
điểm phong cách nghệ thuật này của Tô Hoài
được biểu hiện cụ thể ở các
điểm sau:
-
Cách đặt tên cho tác phẩm của Tô Hoài có khi
được xuất phát từ thành ngữ dân gian: “
Đất khách, quê người”; “ Hoa đồng cỏ
dại”; “ Giăng thề c̣n đó trơ trơ”.
-
Cách kể chuyện, dẫn truyện của Tô Hoài có
sức lôi cuốn, hấp dẫn người đọc,
biểu hiện rơ ở tác phẩm Tuổi
trẻ Hoàng Văn Thụ, Dế Mèn phiêu lưu kí .
-
Tô Hoài thường đi vào khám phá và thể hiện
truyền thống nhân nghĩa của con người
Việt Nam như : trọng nghĩa khinh tài, khí tiết,
thủy chung,…
-
Tô Hoài khai thác đề tài lịch sử
để ngợi ca phẩm chất cao đẹp
của con người Việt Nam, tiêu biểu là tác
phẩm Đảo hoang,
Chuyện ông Gióng.
Cách
quan sát thông minh hóm hỉnh và rất tinh tế là khả
năng nổi trội của Tô Hoài trong quá tŕnh sáng
tạo nghệ thuật. Khả năng này của ông
được biểu hiện rơ ngay từ trước cách
mạng qua những truyện viết về loài vật. Càng
về sau càng được phát huy ở nhiều tác
phẩm khác. Những trang văn của Tô Hoài khi miêu
tả cảnh sắc thiên nhiên, phong tục tập quán,
lễ hội ở vùng ngoại thành Hà Nội và vùng núi
Tây Bắc đều để lại cho người
đọc ấn tượng sâu bền, cũng như luôn
mang đến cho họ nguồn tư
liệu rất phong phú về lịch sử, địa
lí và đời sống văn hóa tinh thần của dân
tộc. Đặc biệt, khi miêu tả ngoại h́nh và
diễn biến tâm lí của nhân vật, Tô Hoài đă
chọn lựa những chi tiết độc đáo có
sức gợi cảm nhằm tác động mănh liệt
đến t́nh cảm nhận thức của người
đọc về thân phận của nhân vật. Nhà văn
c̣n sử dụng yếu tố ngoại cảnh để
góp phần làm nổi bật hơn nội tâm của nhân
vật trong từng hoàn cảnh, t́nh huống cụ
thể. Chính v́ thế, các nhân vật trong tác phẩm
của Tô Hoài thường mang nét riêng và gợi cho người
đọc biết bao điều suy ngẫm.
Ngôn
ngữ trong tác phẩm của Tô Hoài là ngôn ngữ
xuất phát từ đời sống quần chúng. Tô Hoài
quan niệm đó là kho của cải vô giá và ông đă
biết cách chọn lựa, nâng cao và nghệ thuật hóa
trong các sáng tác của ḿnh để tăng thêm giá
trị của nó. Ông khẳng định: “Mỗi
chữ phải là một hạt ngọc buông xuống
những trang bản thảo, hạt ngọc mới
nhất của ḿnh t́m được, do phong cách văn chương
của ḿnh mà có”…“Câu nói là bộ mặt của ư.
Ư không bao giờ lặp lại, cũng như cuộc
sống không bao giờ trở lại giống nhau như
đúc th́ lời văn cũng phải thế”(Sổ tay viết văn).
Với
sự nhận thức trên, Tô Hoài đă luôn trau dồi
học hỏi ngôn ngữ trong cuộc sống đời
thường của nhân dân ở làng quê ngoại thành Hà
Nội và cả ở miền núi Tây Bắc. Ở
từng vùng đất, từng đối tượng,
từng loại nhân vật, ông đều có cách sử
dụng ngôn ngữ thích ứng với đặc điểm
của nó. Mặt khác, ông c̣n sử dụng thành công
những từ ngữ giàu sức tạo h́nh, từ
chỉ màu sắc, từ địa phương,... Điều
đó tạo cho tác phẩm của ông vừa có vẻ
đẹp giản dị, vừa không kém phần ḱ thú.
“Dao
có mài mới sắc”, với sự cần mẫn,
bền bỉ, dẻo dai, không ngừng học hỏi, tích
lũy, tự vượt ḿnh để sáng tạo đó
chính là điều làm nên bản lĩnh và tài năng
nghệ thuật của Tô Hoài. Với những thành
tựu to lớn đă đạt được sau hơn
nửa thế kỉ sáng tạo nghệ thuật, Tô Hoài
xứng đáng là một trong những cây bút tiêu biểu
của nền văn xuôi Việt Nam hiện đại, là
tấm gương lao động nghệ thuật cho văn
nghệ sĩ noi theo.
Người
đọc trước đây, hiện nay và mai sau có
lẽ không thể quên được những đóng góp
độc đáo, đặc sắc của Tô Hoài đối
với nền văn chương
dân tộc.
*
* *
Câu
hỏi ôn tập :
1 - V́ sao truyện Dế mèn
phiêu lưu kí của Tô Hoài lại có sức hấp
dẫn lâu bền đối với người đọc?
2 - Những điều kiện nào giúp Tô Hoài
viết thành công mảng truyện về loài vật?
3 - Nghệ thuật tả cảnh làng quê Việt Nam
trước Cách mạng tháng Tám của Tô Hoài có
những đặc sắc ǵ ?
4
- Những đặc điểm nổi bật của
truyện viết về loài vật là ǵ ?
5 - Hăy lí giải v́ sao sáng tác của Tô Hoài chủ
yếu tập trung ở vùng ven thành Hà Nội và miền
núi Tây Bắc?
Đề
tài nghiên cứu và hội thảo:
1 - Đóng góp của Tô Hoài ở mảng truyện
viết về loài vật.
2 - Đóng góp của Tô Hoài ở mảng truyện
viết cho thiếu nhi.
3
- Thân phận con người miền núi Tây Bắc qua
tập Truyện Tây Bắc của Tô Hoài.
4 - Những đặc điểm nổi bật
của phong cách nghệ thuật Tô Hoài.
5
- Đặc sắc ở thể hồi kí của Tô Hoài.
Tài
liệu tham khảo chính cần đọc:
Các tập tiểu thuyết, tuyển tập, hồi
kí của Tô Hoài và các tài liệu sau:
1
- Phan Cự Đệ - Tô Hoài trong
sách Nhà văn Việt Nam (1945 -
1975), tập I, NXB Đại học và Trung học chuyên
nghiệp, Hà Nội, 1979.
2 - Hà Minh Đức - Lời
giới thiệu cho Tuyển tập Tô Hoài, tập I, NXB Văn
học, Hà Nội, 1996.
3 - Phong Lê - Vân Thanh - Tô Hoài,
về tác gia và tác phẩm, NXB Giáo dục, Hà Nội,
2000.
4 - Nguyễn Đăng Mạnh - Tô
Hoài và quan niệm “Con người là con người”
trong sách Nhà văn Việt Nam
hiện đại - Chân dung và phong cách, NXB Trẻ, thành
phố Hồ Chí Minh, 2000.
5 - Trần Hữu Tá - Tô Hoài trong sách Văn học
Việt Nam 1945 - 1975, tập II, NXB Giáo dục, Hà Nội,
1990.
6 - Vân Thanh - Tô Hoài trong sách Tác gia
văn xuôi Việt Nam hiện đại, NXB Khoa học
và xă hội, Hà Nội, 1977.
7 - Vân Thanh - Tô Hoài với thiếu nhi, trong sách Truyện viết cho thiếu nhi dưới chế
độ mới, NXB Khoa học và xă hội, Hà
Nội, 1982.
8
- Vân Thanh (tuyển chọn và giới thiệu) - Tô
Hoài, những tác phẩm tiêu biểu (trước 1945),
NXB Giáo dục, Hà Nội, 2000.