VĂN
HỌC VIỆT NAM 1955 -1975
XUÂN DIỆU
(
1916 – 1985)
1 – Vài nét về tiểu sử và con người :
3 – Xuân Diệu với văn xuôi, tiểu luận, phê b́nh :
4 – Phong cách nghệ thuật của Xuân Diệu:
VĂN
HỌC VIỆT NAM 1955 -1975
XUÂN DIỆU
(
1916 – 1985)
Xuân Diệu
tên thật là Ngô Xuân Diệu; sinh ngày 02 - 2 - 1916 tại Tùng
Giản - Tuy Phước - B́nh Định.
Quê quán:
Đại Lộc - Can Lộc – Hà Tĩnh.
Xuân Diệu
học tiểu học ở Quy Nhơn, sau đó ra học
trung học ở Hà Nội và Huế.
Năm 1940, ông thi đỗ Tham tá thương chính và
vào làm việc tại Mĩ Tho. Một thời gian sau ông
xin thôi việc ra Hà Nội kết bạn thơ với Huy
Cận.
Xuân
Diệu tham gia cách mạng từ năm 1944. Sau Cách
mạng tháng Tám, ông là Ủy viên Ban chấp hành Hội Văn
hóa cứu quốc, thư kí ṭa soạn Tạp chí Tiên
phong. Ông là đại biểu Quốc hội khóa I; năm
1948 là Uûy viên Ban chấp hành Hội Văn nghệ
Việt Nam. Từ 1957 cho đến khi qua đời, Xuân
Diệu luôn được bầu vào Ban chấp hành
Hội nhà văn Việt Nam. Ông được kết
nạp vào Đảng năm 1949. Năm 1983, ông được
công nhận là Viện sĩ thông tấn Viện Hàn lâm
nghệ thuật nước Cộng ḥa dân chủ Đức.
Năm 1985, Xuân Diệu lâm trọng bệnh và qua đời.
Xuân Diệu
để lại một di sản văn học đồ
sộ với nhiều thể loại:
- Trước Cách mạng tháng Tám:
+ Thơ : Thơ thơ
(1938), Gửi hương cho gió
(1945).
+ Văn
xuôi : Phấn thông vàng (1939)
- Sau Cách mạng tháng Tám:
+ Thơ : Ngọn quốc ḱ (1945), Hội
nghị non sông (1946), Dưới
vàng sao (1949), Sáng (1953), Mẹ
con (1954), Ngôi sao (1955), Riêng chung
(1960), Mũi Cà Mau- Cầm tay ( 1962),
Khối hồng (1964), Hai đợt sóng (1967),
Tôi giàu đôi mắt (1970), Hồn
tôi đôi cánh (1976), Thanh ca
(1982).
+ Văn xuôi, tiểu luận, phê b́nh : Tiếng
thơ (1951), Những bước
đường tư tưởng (1958),
Ba thi hào dân tộc (1959), Phê
b́nh giới thiệu thơ (1960),
Tṛ chuyện với các bạn làm thơ trẻ (1961),
Dao có mài mới sắc (1963),
Thi hào dân tộc Nguyễn Du (1966),
Đi trên đường lớn (1968),
Và cây dời măi măi xanh tươi (1971),
Mài sắt nên kim (1977), Lượng
thông tin và những kĩ sư tâm hồn ấy (1978),
Các nhà thơ cổ điển Việt Nam ( hai tập;
1981& 1982).
+ Dịch và
giới thiệu thơ nước ngoài của các nhà thơ
như : Targo, Puskin, Maiacốpxki, Đimitrôva,...
Một số điểm cần lưu ư :
+
Xuân Diệu là nhà thơ lớn của dân tộc, ông luôn
là tấm gương lao động nghệ thuật
bền bỉ, dẻo dai, giàu sức sáng tạo, đạt
được nhiều thành tựu lớn trong sáng tác.
+ Xuân Diệu là người giới thiệu, phê b́nh
thơ rất tinh tế và sắc bén. Ông có được
những thành công lớn không chỉ ở việc
giới thiệu, phê b́nh thơ cổ điển, thơ
ca hiện đại, mà c̣n ở cả thơ ca nước
ngoài. Ông thường chỉ ra được cái hay,
sự độc đáo ở mỗi nhà thơ qua tác
phẩm của họ.
+ Cuộc đời và thơ của Xuân Diệu
gắn với quê hương đất nước. Ông có
khát vọng hiến dâng sức lực và trí tuệ
của ḿnh cho dân tộc, ông không ngại khó khăn, gian
khổ, hăng hái, nhiệt t́nh, đi khắp mọi
nẻo đường Tổ quốc để phục
vụ nhân dân … Chính v́ lẽ đó, Xuân Diệu
được tất cả độc giả trong nước
yêu mến, ngưỡng mộ không chỉ ở thơ, mà
c̣n ở tấm ḷng say sưa và chân thành của ông trước
cuộc đời.
2.1
– Thơ Xuân Diệu trước Cách mạng tháng Tám :
Trước
Cách mạng tháng Tám, Xuân Diệu có hai tập thơ: Thơ
thơ (1938) và Gửi
hương cho gió (1945). Ông là nhà thơ tiêu biểu
của phong trào Thơ Mới cả về nội dung
lẫn h́nh thức. Trong Thi nhân
Việt Nam, Hoài Thanh đă khẳng định: “Xuân
Diệu là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ
mới, nhà thơ đại biểu đầy đủ
nhất cho thời đại”.
Khác
với các nhà thơ cùng thời ḱ, Xuân Diệu gắn bó
thiết tha với cuộc sống, “Lầu thơ của
ông xây dựng trên đất của một tấm ḷng
trần gian”. Khát vọng mănh liệt đến với
cuộc đời, giao cảm với đời là một
trong những yếu tố tạo nên sức hấp
dẫn của thơ Xuân Diệu.
Cảm hứng về t́nh yêu là cảm hứng
nổi bật trong thơ Xuân Diệu. Với ông, t́nh yêu
đă trở thành lẽ sống, “làm sao sống
được mà không yêu”, mặc dầu ông cảm
nhận :“ Yêu là chết ở trong ḷng một ít, v́
mấy khi yêu mà chắc được yêu”.
Bởi thế, ông luôn có tâm trạng
Vội vàng, Giục giă . Ông sợ thời gian, ông
muốn vũ trụ ngưng đọng :
Tôi muốn tắt
nắng đi
Cho màu đừng nhạt nắng
Tôi muốn buộc nắng lại
Cho hương đừng bay đi.
(Vội vàng)
hay
là:
Mau
với chứ, vội vàng lên với chứ
Em em ơi, t́nh non sắp già rồi
Gấp đi em, anh rất sợ ngày mai
Đời trôi chảy, ḷng ta không vĩnh viễn.
(Giục
giă)
T́nh
yêu được Xuân Diệu diễn tả với
nhiều cung bậc, từ Gặp gỡ rồi Yêu,
cho đến khi Xa cách , Biệt li êm ái và với những tâm trạng và
hành động khác nhau: Có
khi là sự “dại khờ”, “mời yêu” hay
“ngẩn ngơ”, “nhớ mông lung”,“sầu”,
… Cũng có khi “ rạo
rực” khát vọng :
Thà một phút huy hoàng
rồi chợt tối
C̣n hơn buồn le lói suốt trăm năm .
Xuân Diệu đă thể hiện được
một t́nh yêu đích thực, không e ấp ngượng
ngùng khi bày tỏ t́nh yêu. Ông muốn tạo nên một không
gian thấm đẫm t́nh yêu để gửi gắm
niềm khao khát về t́nh yêu vô biên và tuyệt đích :
Yêu
tha thiết thế vẫn c̣n chưa đủ
Phải nói yêu trăm bận đến ngh́n lần
Phải mặn nồng cho măi măi đem xuân
Đem chim bướm thả trong vườn t́nh ái.
(Phải nói)
Dẫu
t́nh yêu có nồng cháy, mănh liệt nhưng nó vẫn không
được cuộc đời đón nhận, khiến
“cái tôi” phải cầu xin:
Mở miệng vàng.. và hăy
nói yêu tôi
Dầu chỉ là trong một phút mà thôi!...
(Mời yêu)
Càng
yêu cuộc đời bao nhiêu, Xuân Diệu càng tự
đày ải trái tim của ḿnh và càng thất vọng
bấy nhiêu… Điều đó đă tạo nên sự
“cô đơn muôn lần muôn thuở cô đơn”
cho nhà thơ. Đặc biệt, có khi “ cái tôi” đă
lên đến đỉnh cao của sự cô đơn,
nhỏ nhen, tầm thường:
Ta là Một, là Riêng là
thứ Nhất
Không có chi bè bạn nổi cùng ta !
(
“Cái
tôi” gục xuống, sợ hăi, thốt lên lời rên
rỉ trước cuộc đời thờ ơ, lạnh
nhạt, hay đau đớn van xin : “Chớ đạp
hồn em”, “Chớ để riêng em phải gặp ḷng
em” và rơi vào tâm trạng tuyệt vọng :
Xao xác tiếng gà, trăng
ngà lạnh buốt
Mắt run mờ, kỉ nữ thấy trăng trôi
Du khách đi, du khách đă đi rồi .
(Lời kĩ nữ)
Cũng
v́ thế, t́nh yêu trong thơ Xuân Diệu gắn liền
với nỗi cô đơn và sự hoài nghi. Ngay cả khi
“ được yêu” nhưng “ cái tôi” vẫn lo
sợ v́ cảm nhận sự biệt li, tan vỡ đang
dần đến. Cho dù cùng người yêu dạo bước
dưới ánh trăng “cái tôi” vẫn cảm thấy:
Trăng sáng, trăng xa, trăng
rộng quá
Hai người nhưng chẳng bớt bơ vơ.
hay là:
Nắng
mọc chưa tin, hoa rụng không ngờ
T́nh
yêu đến, t́nh yêu đi ai biết
Trong gặp gỡ đă có mầm li biệt
Những vườn xưa nay đoạn tuyệt
dấu hài…”
(
Giục giă)
Có
thể nói, t́nh yêu trong thơ Xuân Diệu thời ḱ này
rất nồng cháy, “vô biên” để rồi rơi vào
bi kịch của một trái tim hiến dâng nhầm
chỗ và “say khướt đau thương”.
Về
nghệ thuật: Xuân Diệu cảm nhận cuộc
sống bằng nhiều giác quan mà đặc biệt là
cảm giác ( Thơ duyên,
Vội vàng, Nhị hồ,… ). Ông sử dụng
ngôn ngữ thơ rất sáng tạo, và luôn có sự t́m
ṭi mới mẻ, độc đáo nhằm tạo nên
sức gợi tả, truyền cảm mạnh mẽ cho thơ
(Đây mùa thu tới, Khi
chiều giăng lưới, Vội vàng). Xuân Diệu
đă sử dụng thành công sự tương quan
giữa các màu sắc, âm thanh nhịp điệu để
tạo nên âm hưởng trong thơ (
Nguyệt cầm, Thơ duyên,… ).
Tóm
lại: Thơ của Xuân Diệu trước Cách mạng
tháng Tám biểu hiện rơ tấm ḷng của một con người
nặng t́nh với đời song bế tắc. T́nh yêu
nam nữ trong thơ Xuân Diệu thời ḱ này được
diễn tả với tất cả cung bậc của nó
qua những vần thơ uyển chuyển giàu âm thanh, màu
sắc, h́nh ảnh…, để lại âm vang mạnh
mẽ trong ḷng người đọc.
2..2
– Thơ Xuân Diệu sau Cách mạng tháng Tám:
2.2.1
- Thời ḱ đầu sau Cách mạng tháng Tám:
Xuân
Diệu hướng về cuộc sống cách mạng
của dân tộc , tự hào, phấn khởi trước
sự thành công của Cách mạng tháng Tám. Ông bộc
lộ khát vọng “Mở ḷng ra ôm đón lấy sao vàng”
và “Đi theo tiếng gọi nước non thiêng”.
Thơ
ông ở thời điểm này thể hiện cảm xúc
mạnh mẽ trước hiện thực cuộc sống
cách mạng với ư thức, trách nhiệm của một
công dân đối với Tổ quốc. Lần đầu
tiên viết về cách mạng, Xuân Diệu đă có
được những vần thơ trong sáng, yêu đời.
Điều đó được biểu hiện rơ ở Ngọn
quốc ḱ (1945) và Hội
nghị non sông (1946). Ư nghĩa thiêng liêng của lá
cờ đỏ sao vàng được nhà thơ cảm
nhận :
Cờ như mắt
mở thức thâu canh
Như lửa đốt ḥai trên chót đỉnh.
Cờ như nắng măi ấm luôn luôn,
Sưởi khắp ḷng ai nghe vắng lạnh.
Sớm hôm canh giữ lấy hồn thiêng,
Bay măi trên trời, treo sứ mệnh.
(Ngọn Quốc ḱ)
Có
thể nói, so với nhiều nhà thơ khác, thơ Xuân
Diệu ra đời kịp thời, mang tính thời
sự nhưng cũng giàu chất lăng mạn. Âm hưởng
hùng tráng, đằm thắm thiếr tha toát lên từ tác
phẩm của ông đă góp phần tạo nên sức
cuốn hút, cổ vũ mạnh mẽ bạn đọc
nhanh chóng vững ḷng tin đến với đời
sống cách mạng.
2.2.2
- Thời ḱ kháng chiến chống Pháp
Xuân Diệu
hăng hái tham gia cuộc kháng chiến chống Pháp,
gắn bó với cuộc sống nhân dân. Càng ngày ông càng
hiểu hơn về những con người giản
dị mà vĩ đại. Đó chính là điều
kiện thuận lợi giúp ông có được vốn
sống và nguồn cảm hứng sáng tạo để
viết nên các tập thơ: Dưới
vàng sao (1949), Sáng (1953), Mẹ
con (1954).
Cảm
hứng chủ đạo ở các tập thơ trên là
niềm tin yêu, niềm lạc quan trước hiện
thực đời sống cách mạng. Ông cảm nhận
cuộc đời như :
Một sớm mai hồng,
một b́nh minh
Xanh mắt trẻ con,
Hồng môi thiếu nữ.
(
Trở về)
Cuộc
đời hiện tại dù c̣n bao gian truân thử thách nhưng
đối với nhà thơ “Bà mẹ đời du dương
tay mở rộng” và Hương
đời luôn thấm đượm. Nhà thơ cho
rằng:
Đời
đáng yêu – nhiều lúc có ǵ đâu…
Như
đôi lứa ḿnh lặng lẽ nh́n nhau…
Một
cái nắm tay, một đầu thuốc dở,
Một
tiếng vang trong một mái đầu.
(Hương
đời)
Xuân
Diệu cảm nhận sâu sắc cuộc sống cao đẹp
của quần chúng và cảm thông với nỗi khổ
đau của họ. H́nh ảnh quần chúng lần đầu
tiên xuất hiện trong thơ
Xuân Diệu chính là một nét mới về đối
tượng phản ảnh, nó đánh dấu cho bước
chuyển quan trọng về t́nh cảm nhận thức trên
con đường thơ của ông (Tặng
làng C̣ng, Bà cụ mù ḷa…). Trên cơ sở đó, nhà
thơ đă viết nên nhiều vần thơ giản
dị mà thấm nặng nghĩa t́nh:
Hạt
cơm ăn của bà con
Là t́nh, là nghĩa, là ơn thấm nhuần.
( Tặng làng C̣ng)
Vẻ
đẹp của h́nh ảnh của bà mẹ nghèo trong kháng
chiến đă được nhà thơ thể hiện
sinh động qua nhiều bài thơ và rơ nét nhất là t́nh
yêu thương của mẹ. Cũng v́ thế, khi giă
từ Việt Bắc về Thủ đô Hà Nội nhà thơ
không thể nào quên được h́nh ảnh của
mẹ vào những tháng năm đó:
Mẹ nghèo vẫn cố
nuôi con:
Khi bùi măng nứa, khi ngon củ mài.
Sẻ
từng hạt muối cắn đôi
Nhà sàn chung ở, chăn sui đắp cùng.
(Ta chào Việt Bắc,
về xuôi)
Bên
cạnh đó, Xuân Diệu cũng bày tỏ được
một cách chân thành nỗi trăn trở và sự kính yêu
của ḿnh khi viết về Bác. Ông đă t́m được
cách thể hiện riêng và rất thấm thía:
Trên
đầu tóc Bác sương ghi
Chắc đôi sợi bạc đă v́ chúng con.
(
Sáng)
Dù c̣n có
hạn chế song các tập thơ trên đă thể
hiện được bao nỗi niềm, t́nh cảm
của Xuân Diệu trước hiện thực đời
sống cách mạng. Thơ Xuân Diệu thời ḱ này
đánh dấu một bước chuyển biến lớn
về tư tưởng, t́nh cảm, giọng điệu…
, trên con đường thơ của ông.
2.2.3
- Thời ḱ xây dựng chủ nghĩa xă hội và kháng
chiến chống Mĩ
-
Cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc thắng
lợi, miền Bắc bước vào cuộc sống xây
dựng chủ nghĩa xă hội. Trước hiện
thực sôi động đó, với sự nhạy
cảm, ḷng tin yêu cuộc đời mới, thơ Xuân
Diệu có sự vươn lên mạnh mẽ, đề
cập đến nhiều vấn đề trong cuộc
đời mới, biểu hiện rơ ở ba tập thơ:
Riêng chung (1960), Mũi Cà Mau-
Cầm tay (1962), Khối
hồng (1964).
Xuân
Diệu say sưa ngợi ca cuộc đời mới
với những đổi thay mang ư nghĩa sâu sắc
trong đời sống của dân tộc, và rồi ông trăn
trở nghĩ về ḿnh, bày tỏ chân thành niềm vui
hạnh phúc qua nhiều bài thơ như :
Ngói mới, Lệ, Chào Hạ Long... Ông nguyện nh́n
đời bằng Đôi mắt xanh non, bởi v́, ở khắp
mọi nơi, từ các làng quê vùng đồng bằng
đến vùng núi Mă Pí-Lèng,
hay hải đảo Cḥm Cô Tô
mười bảy đảo xanh, cuộc sống bao
giờ cũng “xanh non”, và“măi măi tươi ḍn”. Với Xuân Diệu, cuộc sống giờ đây
chính là những trang đời đẹp nhất,
“những trang tốt lành”, để rồi ông khao khát
:
Muốn
trùm hạnh phúc dưới trời xanh,
Có lẽ ḷng tôi cũng hóa thành
Ngói
mới.
(Ngói mới)
Không chỉ vui say mà nhà thơ c̣n tự hào khi đă
qua rồi nỗi đau tê tái, “vị buồn ghê mặn
chát”, “mực mài nước mắt gửi người
thương”, “vũ trụ tưởng tàn, thế gian
tưởng hết”…, và giờ đây hạnh phúc
đến với mọi người. V́ lẽ đó,
ở bài thơ Lệ nhà thơ
có được cách nh́n, cách nghĩ rất thấm thía
về quá khứ và hiện tại:
Xưa
lệ ta sa oán hận đất trời,
Nay lệ ̣a, ta lại thấy đời tươi!
- Giọt nước mắt ta
Chan chứa t́nh người.
Trong
cảnh đất nước chia cắt ông Nhớ
quê Nam, với “vườn xoài trưa nắng”, “gió
biển Quy Nhơn”, “mảnh vườn Sa Đéc, con kênh
Tháp Mười”, nhớ “bà má Năm Căn bỏm
bẻm nhai trầu”, nhớ “trăng lam Đèo Cả, mây
hồng Hải Vân”; nhớ điệu bổng trầm
“… qua nhớ thương em bậu”, nhớ sông Thu
Bồn, Trà Khúc, sông Hương, và
Gửi sông Hiền Lương
bao nghĩa t́nh sâu nặng :
Gửi ngàn mến với muôn thương trong ấy
Gửi lời về xin bớt nhớ, khoan thương
Gửi kiên trinh một tấm ḷng vàng.
Càng đến
với cuộc sống, t́nh đất nước, t́nh người
trong thơ Xuân Diệu càng đằm thắm thiết tha,
càng mang ư nghĩa khái quát sâu sắc.
Khi cả nước
có chiến tranh, Xuân Diệu nhanh chóng ḥa nhịp với
cuộc sống chiến đấu của dân tộc, ông
không ngại khó khăn gian khổ đến với
nhiều vùng đất nóng bỏng, ác liệt nhất
với tâm nguyện :
Tôi
cùng xương thịt với nhân dân của tôi,
Cùng đổ mồ hôi, cùng sôi giọt máu,
Tôi sống với cuộc đời chiến đấu
Của triệu người yêu dấu gian lao.
(Những đêm hành quân)
Rất dễ nhận thấy, thơ viết về
cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước
của Xuân Diệu xuất hiện đều đặn
trên báo chí vàcó khả năng ứng chiến nhạy bén
trước những sự kiện của đời
sống kháng chiến. Điều đó được
phản ánh rơ nét qua ba tập thơ: Hai
đợt sóng (1967), Tôi giàu đôi mắt (1970), Hồn tôi
đôi cánh (1976).
Hơn
lúc nào hết, nhà thơ nhận
thức rơ hơn về sức sống mănh liệt của
con người Việt Nam trong chiến tranh. Ông khẳng
định Sự sống
chẳng bao giờ chán nản, và “chúng ta yêu sự
sống bền dai, vĩnh viễn, bao la!”.
Xuân
Diệu có ư thức mở rộng thi đề để
phản ảnh mọi mặt của đời sống. Có
những cảnh như : Các cháu
đi sơ tán, hay cảnh Vợ
chuẩn bị hành trang cho chồng đi vào hỏa
tuyến đă gợi lên cho người đọc
biết bao niềm xúc động mạnh mẽ.
Nét
mới của thơ Xuân Diệu ở thời ḱ này là
vừa giàu chất trữ t́nh vừa chứa đựng
tính triết lư biểu hiện rơ trong bài
Quả sấu non trên cao và
Sự sống chẳng bao giờ chán nản.
Mặt khác, thơ ông c̣n có thêm chất trào phúng (Con
chim và xác chiếc tàu bay Mĩ) .
2.2.4
- Từ sau 1975 đến khi qua đời
Sau
ngày miền Nam được giải phóng, đất nước
thống nhất, Xuân Diệu viết về Miền
Nam quê ngoại, ḷng dạt dào vui sướng khi Đi
giữa Sài G̣n trong ngày chiến thắng và ông bồi
hồi nhớ về quê ngoại sau bao năm xa cách.
Ông
có khát vọng: Tôi muốn đi thăm khắp cả
miền Nam, Nghe nhạc Nam
để “thức măi cùng thương nhớ”,
đến Phan Thiết “thăm
kinh đô cá mắm”, hay Tâm
sự với Quy Nhơn sau hơn ba mươi năm
trở lại với quê ngọai, nơi chan chứa
kỉ niệm của tuổi thơ và tự hào hơn
về vẻ đẹp của miền đất này:
Ôi! Biển Quy Nhơn, biển đậm đà
Thuyền đi rẽ sóng, sóng viền hoa.
Cảm ơn quê má muôn yêu dấu
Vẫn ấp iu hoài tuổi nhỏ ta.
Nhiều
vần thơ của ông ở thời ḱ này thể
hiện sự đằm thắm nghĩa t́nh đối
với miền Nam. Có thể nói: “Viết về miền
Nam là Xuân Diệu đă khơi dậy những t́nh
cảm, những kỉ niệm sâu sắc của ḿnh,
những h́nh ảnh được chắt lọc qua
nhiều năm tháng để chỉ c̣n lại những ǵ
thực sự là máu thịt, là rung động cho thơ”(
Mă Giang Lân ).
2.2.5
- Thơ t́nh của Xuân Diệu sau Cách mạng tháng Tám
Với
thơ t́nh, Xuân Diệu đă đạt được
những thành công rất đặc sắc. Ở mảng
thơ này bản lĩnh nghệ thuật của Xuân
Diệu bộc lộ rơ nét nhất.
Trước
Cách mạng tháng Tám, thơ t́nh Xuân Diệu giăi bày
niềm khao khát được ban phát t́nh yêu, hiến dâng,
vồ vập nhưng rồi như Nước
đổ lá khoai, và kết cục rơi vào bi kịch
của một trái tim hiến dâng nhầm chỗ. C̣n sau Cách
mạng tháng Tám, thơ t́nh của ông có được
một nguồn mạch mới, đó là t́nh yêu bền
chặt, gắn bó không thể ǵ chia cắt nổi
bời t́nh yêu của lứa đôi bao giờ cũng
nồng nàn, đến “ngàn năm không thỏa”. Dù
“anh không xứng là biển xanh / nhưng anh muốn em làm
bờ cát trắng” để có thể :
Hôn măi cát vàng em
Hôn thật khẽ, thật êm
Hôn êm đềm măi măi.
( Biển )
C̣n
nỗi nhớ da diết, cháy bỏng của t́nh yêu
được nhà thơ cảm nhận :
Uống
xong lại khát là t́nh
Gặp rồi lại nhớ là ḿnh của ta
( Uống xong lại khát)
Xuân
Diệu cảm nhận sự xa cách của t́nh yêu
“một khắc là thế kỉ”. Bởi vậy, càng yêu
nhau họ càng mong muốn gần nhau, gắn bó với nhau
để rồi hiểu nhau hơn. Họ khao khát măi bên
nhau để san sẻ cả niềm vui hạnh phúc, cũng
như nỗi buồn. Nhà thơ cảm nhận cho rằng
:
Vai anh
khi để đầu em tựa
Cân cả buồn vui của một đời
(T́nh
yêu san sẻ)
Ông
cũng nói đến nỗi đau trong t́nh yêu, nỗi
đau đó nhức nhối ṿ xé tấm ḷng ho, nó là Cái
dằm, là“vết thương trong cơi tinh thần”
của lứa đôi. Nhưng nỗi đau rồi sẽ qua đi,
họ nhanh chóng “ làm lành” với nhau v́ “ em là nhân
của hồn anh”. Có thể nào anh lại thiếu
vắng em giữa cuộc đời, khi anh hiểu
rằng :
Mang
em trong dạ như mầm
Ngày đi suy nghĩ đêm nằm nhớ thương
( Quả trứng và ḷng
đỏ)
T́nh
yêu trong thơ Xuân Diệu càng trở nên cao đẹp hơn
khi lứa đôi hiểu rơ giữa họ với cuộc
đời có mối quan hệ thắm thiết. Hạnh phúc
lứa đôi gắn liền với hạnh phúc của dân
tộc, nhà thơ cho rằng:
Của đời ta
nhận ấm êm
Hồn trao âu yếm ta thêm tặng đời
(
T́nh yêu muốn hóa vô biên).
Khác với trước Cách mạng tháng Tám, giờ
đây t́nh yêu ít có nỗi buồn mà thấm đượm
niềm vui. T́nh yêu đă làm trỗi dậy niềm vui, giúp
lứa đôi “cởi hết ưu phiền gửi gió mây”,
và khi đó giọng nói của em dù chỉ là “giọng
nói thường” nhưng “anh vẫn nghe hay tựa
tiếng đàn”, vẫn ngập tràn hạnh phúc trong
cảnh :
Em
cười ríu rít ở sau xe
Em nói ḷng anh măi lắng nghe
Thỉnh thoảng tiếng cừi em lại điểm
Đời vui khi được có em kề.
( Giọng nói )
Ngoài ra, thơ t́nh Xuân Diệu thời ḱ này bên
cạnh t́nh yêu c̣n có thêm t́nh vợ chồng. Tuy viết
về t́nh vợ chồng nhưng vẫn quyện ḥa, chan
chứa t́nh yêu, vẫn là thơ t́nh yêu. Điều này
biểu hiện rơ qua các bài thơ như : Anh
thương em khi ngủ, Đứa con của t́nh yêu,
Vợ chuẩn bị hành trang cho chồng vào hỏa
tuyến, Dấu nằm, Đứng chờ em,...
Có
thể nói, đến với thơ t́nh của Xuân
Diệu sau Cách mạng tháng Tám, chúng ta nhận thấy: tóc
Xuân Diệu dù đă hoa râm nhưng ông vẫn giữ
được chất thanh xuân của tâm hồn để
cùng tuổi trẻ nói chuyện tri âm, chuyện t́nh yêu,
hẹn thề, nói chuyện say đắm … Bởi
thế, nhà thơ Trần Lê Văn đă viết :
“
Bởi quá yêu đời nên nặng ḷng ấp ủ
Bởi không muốn già, nên bền chí thanh xuân”
( Dây đàn bỗng đứt).
Mảng thơ t́nh của Xuân Diệu, chính là món quà
tặng người đời măi măi, như ở bài thơ
Đề tặng ông đă
viết :
Tặng ḷng con trai
Tặng
ḷng con gái
Tặng hoa tặng trời
Tặng t́nh măi măi
……….
Tặng hương - tặng Đời”.
(Sinh
viên đọc tài liệu theo sự hướng dẫn
của giáo viên).
Cần lưu ư các
điểm sau :
-
Sự quan tâm của Xuân Diệu đối với các nhà
thơ lớp kế cận và lớp trẻ. Không ít nhà
thơ trẻ đă đạt
được sự thành công trong sáng tạo phần nào
có sự giúp đỡ, quan tâm của Xuân Diệu.
- Xuân
Diệu giới thiệu thơ quần chúng. Ông chịu khó
t́m kiếm, chắt lọc cái hay, cái đẹp trong
những sáng tác của họ để giới thiệu
một cách trân trọng.
- Xuân Diệu khám
phá, phát hiện cái hay, cái đẹp trong thơ của các
nhà thơ hiện đại ưu tú như :
Tố Hữu, Huy Cận, Chế Lan Viên …
- Giới
thiệu thành tựu của các nhà thơ lớn trong thơ
ca dân tộc: Nguyễn Trăi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương,
Nguyễn Khuyến, Tú Xương …
-
Xuân Diệu dịch và giới thiệu một số nhà
thơ lớn ở nước ngoài đối với người
đọc Việt Nam và đồng thời giới
thiệu một số bài thơ Việt Nam tiêu biểu
sang các nước khác.
4 – Phong cách nghệ thuật của Xuân Diệu: |
Xuân Diệu là
một nhà thơ luôn gắn bó với cuộc sống và
sống hết ḿnh cho cuộc sống. Xuân Diệu luôn có
mặt trong cuộc sống, ông đặt tên cho một
tập thơ của ḿnh là Tôi
giàu đôi mắt. Ông hăm hở, say mê sáng tạo
với trách nhiệm của một công dân trước
cuộc sống. Thơ ông bám lấy thực tại
của cuộc sống, đưa sự vật, hiện tượng
vào thơ, muốn mở rộng cánh cửa thơ cho
cuộc sống tràn vào, do vậy trong thơ ông có sự
bề bộn của những chi tiết hiện thực
cuộc sống. Ông muốn thơ phải có sức
chứa lớn và sức phản ảnh rộng lớn
phong phú.
Xuân
Diệu là nhà thơ giàu sức sáng tạo, luôn có ư
thức t́m ṭi, thể nghiệm trên nhiều phương
diện (cách xây dựng h́nh tượng, nhịp điệu,
ngôn ngữ … ). Đây cũng chính là một trong
những nguyên nhân tạo nên thơ hay và thơ trung b́nh
ở mỗi tập thơ của ông.
Tâm hồn thơ Xuân Diệu luôn có sự tinh tế
và nhạy cảm. Đó là yếu tố bền vững
trong thơ Xuân Diệu trước và sau cách mạng. Nói
cách khác, sức thanh xuân luôn tràn đầy trong tâm
hồn thơ Xuân
Diệu. Tươi trẻ, hăng say như cái thuở ban
đầu yêu và đang yêu là nét nổi bật trong thơ
Xuân Diệu. Sự nhạy cảm của tâm hồn đă
tạo cho thơ ông thêm giàu hương vị của
cuộc đời, tác động mănh liệt đối
với nhận thức của người đọc.
Thơ Xuân Diệu có khi c̣n nặng về kể,
giải bày, ít ẩn ư, thiếu hàm súc, dễ dăi, dài ḍng
trong nhạc điệu, từ ngữ . Điều đó
tạo nên sự hạn chế phần nào về sức
truyền cảm và hấp dẫn của thơ ông đối
với người đọc.
Xuân
Diệu là một nhà thơ cần mẫn,sung sức trong
sáng tạo nghệ thuật và đă có những cống
hiến to lớn cho văn học Việt Nam nói chung, thơ
ca Việt Nam nói riêng, ông đă để lại nhiều
tác phẩm có giá trị đặc sắc, mà đặc
sắc nhất là thơ t́nh yêu nam nữ.
Nghĩ
về Xuân Diệu là chúng ta nghĩ về một tài năng,
một tấm gương lao động nghệ thuật
giàu sức sáng tạo, xứng đáng để các
nghệ sĩ noi theo.
*
*
*
Câu
hỏi ôn tập:
1 - V́ sao nói Xuân Diệu là nhà thơ “mới
nhất trong phong trào Thơ mới, nhà thơ đại
biểu đầy đủ nhất cho thời đại”?
2 - Anh, chị có cảm nhận ǵ về khả năng
nhạy bén của tâm hồn thơ Xuân Diệu trước
hiện thực cuộc sống từ sau Cách mạng tháng
Tám?
3 - Xuân Diệu có những đóng góp ǵ ở phương
diện phê b́nh thơ ?
4 - Những yếu tố cơ bản nào giúp Xuân
Diệu luôn có được sức sáng tạo mănh
liệt?
Đề
tài nghiên cứu và hội thảo:
1 - Sự giống nhau, khác nhau của thơ t́nh Xuân
Diệu trước và sau Cách mạng tháng Tám.
2 - So sánh thơ Xuân Diệu với thơ Tố
Hữu và Chế Lan Viên khi viết về miền Nam,
về Chủ tịch Hồ Chí Minh.
3 - Biểu hiện của đặc điểm phong
cách nghệ thuật Xuân Diệu qua các bài thơ
được chọn giảng trong chương tŕnh
phổ thông trung học.
4
- Những đóng góp của Xuân Diệu ở phương
diện sử dụng ngôn ngữ thơ.
5 - Quan niệm thơ của Xuân Diệu.
Tài
liệu tham khảo chính cần đọc:
Các tập thơ, phê b́nh tiểu luận của Xuân
Diệu và các tài liệu sau:
1
- Xuân Diệu - Tuyển tập
( tập I ), NXB Văn học , Hà Nội, 1983.
2
- Lê Tiến Dũng (biên soạn) - Xuân
Diệu, một đời người, một đời
thơ, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1993.
3
- Lê Tiến Dũng - Những cách
tân nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu giai đoạn
1932 – 1945, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1998.
4
- Hà Minh Đức ( giới thiệu và tuyển chọn) -
Thơ t́nh Xuân Diệu, NXB
Đại học và giáo dục chuyên nghiệp, Hà
Nội, 1992.
5
- Lê Đ́nh Kỵ - Xuân
Diệu trong sách Thơ
mới những bước thăng trầm, NXB Thành
phố Hồ Chí Minh, 1988 ( tái bản 1993).
6
- Mă Giang Lân - Xuân Diệu
trong sách Nhà thơ Việt Nam
hiện đại, NXB Khoa học xă hội, Hà Nội
1984.
7
- Lữ Huy Nguyên (tuyển chọn) - Xuân
Diệu, thơ và đời, NXB Văn học, Hà
Nội, 1995.
8
- Hữu Nhuận (biên soạn) - Xuân Diệu con người
và tác phẩm, NXB Tác phẩm mới, Hà Nội, 1987.
9
- Hoài Thanh - Xuân Diệu trong
sách Thi nhân Việt Nam, NXB Văn
học (tái bản), Hà Nội, 1988.
10
- Hoàng Trung Thông - Lời
giới thiệu Tuyển tập Xuân Diệu, NXB Văn
học, Hà Nội, 1983.