Chương 2
CHINH PHỤ NGÂM
Chương 2
CHINH PHỤ NGÂM
(
Ngâm là lời than).
1.Tác
giả: |
-Chinh
phụ ngâm là tác phẩm Hán văn rất nổi
tiếng của Đặng Trần Côn. Tiểu sử
của tác giả cho đến nay biết được
c̣n rất ít. Kể cả năm sinh năm mất cũng
không biết chính xác. Các nhà nghiên cứu ước đoán
ông sinh vào khoảng năm 1710-1720, mất khoảng 1745.
-Quê
hương: Làng Nhân Mục, huyện Thanh Tŕ, tỉnh Hà
Đông (nay là Hà Tây).
Ông
có làm quan nhưng chức quan không lớn (ông từng
làmhuấn đạo trường phủ., làm tri
huyện Thanh Oai, cuối cùng làm chức Ngự sử
đài chiếu khám).
-Về sáng tác: Chinh phụ ngâm là tác phẩm tiêu biểu nhất, ngoài ra ông có một số bài thơ, bài phú tả cảnh thiên nhiên. Khuynh hướng chung của thơ văn ông là đi sâu vào t́nh cảm, đi sâu vào nỗi ḷng trắc ẩn, phức tạp, sâu kín của con người, nhất là đối với người phụ nữ.
-Chinh
phụ ngâm ra đời đă gây một tiếng vang
lớn trong giới nho sĩ đương
thời. Người ta chú ư đến tác phẩm này không
phải chỉ v́ nghệ thuật điêu luyện của
nó mà trước hết là v́ tác phẩm đă thể
hiện một khuynh hướng mới của văn
học-khuynh hướng hướng tới cuộc
sống của con người. Tác phẩm viết bằng
chữ Hán giữa thời đại văn học Nôm
đang nở rộ cho nên nhiều người đă t́m
cách dịch nó ra chữ Nôm. Có nhiều bản dịch và
phỏng dịch của Đoàn Thị Điểm, Nguyễn
Khản, Bạch Liên Am Nguyễn, Phan Huy Ích. Trong số có
những bản dịch đó, có một bản dịch thành
công nhất được gọi là Bài hiện hành
(bản đang được lưu hành).Vấn đề
đặt ra là ai là tác giả của bản dịch này?
Hiện nay vẫn tồn tại hai khuynh hướng:
-Khuynh
hướng thứ nhất cho rằng tác giả của
bản dịch này là nữ sĩ Đoàn Thị Điểm.
-Khuynh
hướng thứ hai cho rằng tác giả của bản
dịch này là Phan Huy Ích.
-Hiện
nay những người biên soạn sách giáo khoa PTTH
vẫn theo khuynh hướng thứ nhất.
II.ĐỀ TÀI VÀ NGUỒN CẢM HỨNG CỦA TÁC GIẢ, DỊCH GIẢ.
1.Đề tài chiến tranh, chinh phu, chinh phụ là đề tài truyền thống và phổ quát của nhiều nền văn học. |
-Trong
văn học Việt Nam, tiếng nói oán trách chiến
tranh đă vang lên từ những câu ca dao trữ t́nh đầy
oán hận. Từ thế kỷ XV, nhà thơ Thái Thuận
cũng đă từng đặt bút
với
đề tài này (Bài thơ Chinh phụ ngâm). Thế
kỷ XVII, Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng đă từng
viết về đề tài này.
-Trong
văn học Trung Quốc, văn học đời Hán
đă để lại những bài thơ nổi tiếng
về thảm họa chiến tranh. Đặc biệt đến
đời Đường đă xuất hiện những nhà
thơ chuyên khai thác đề tài này: Sầm Tham, Vương
Xương Linh.
-Tác
giả và dịch giả Chinh phụ ngâm có phần đă
t́m nguồn thi hứng từ những trang sách cổ. Nhưng
cái chính là nguồn cảm hứng của cả hai đều
bắt nguồn từ hiện thực cuộc sống .
III.THỂ LOẠI, BÚT PHÁP, BỐ CỤC.
T́m hiểu đặc trưng thể loại để xacï định phương pháp tiếp cận tác phẩm. Chinh phụ ngâm là tác phẩm trữ t́nh, tác phẩm chỉ có một nhân vật -người chinh phụ- h́nh tượng cảm nghĩ. Toàn bộ khúc ngâm chỉ là sự diễn tả tâm trạng của người chinh phụ. Do đó phương pháp tiếp cận tác phẩm là phân tích diễn biến tâm trạng của nhân vật trữ t́nh.
Tác phẩm được viết với bút pháp tượng trưng, ước lệ là chủ yếu. Khi phân tích phải đặc biệt chú ư đặc điểm này.
Nguyên văn bằng chữ Hán gồm 477 câu. Bản
dịch do nhà xuất bản Văn Hóa in có 408 câu. Bản
in của nhà in Tân Việt có 412 câu. Có thể chia tác
phẩm làm ba phần như sau:
-Phần 1:Bốn câu đầu, phần này có giá
trị như phần đặt vấn đề.
-Phần 2: Tiếp đến câu 369 (Mọi bề
trung hiếu thiếp xin vẹn tṛn) đây là phần chính
của khúc ngâm miêu tả tâm trạng của người
chinh phụ với nhiều sắc thái khác nhau.
-Phần3: Phần kết thúc tác phẩm với ước
mơ sum họp trong cảnh thanh b́nh.
Cần
chú ư theo dơi hai vấn đề:
-Những vấn đề chinh phụ suy nghĩ và
đặt ra.
-Sợi dây lôgic dẫn dắt quá tŕnh tâm lí của
chinh phụ.
4.1.1.Mở đầu khúc ngâm, người chinh
phụ nhớ lại cảnh chia tay.
-Mâu thuẫn cơ bản đạt ra trong suốt tác
phẩm là mâu thuẫn giữa phép công
và
niềm tây (niềm tư), mở đầu tác phẩm
mối mâu thuẫn này cũng đă xuất hiện. Đôi
vợ chồng trẻ này đang sống trong hạnh phúc,
yên ổn th́ chiến tranh xảy ra. V́ t́nh thế
khẩn trương, v́ ư thức về nghĩa vụ, v́
danh dự của trang nam nhi hào kiệt và đây cũng là
dịp lập công danh, đem vinh hiển về cho gia đ́nh,
người chinh phu đă "xếp bút nghiên theo việc
đao cung". Người chinh phụ sẽ nói ǵ cho
thực tế tàn nhẫn này. Bên cạnh nỗi buồn,
nỗi lưu luyến, sầu muộn chinh phụ cũng
đă khẳng khái nói:
"Phép
công là trọng, niềm tây sá nào"
Nàng đă ca ngợi chí khí, hành động của
chinh phu:
"Chàng
tuổi trẻ vốn ḍng hào kiệt,
Xếp
bút nghiên theo việc đao cung
Thành
liền mong tiến bệ rồng
Thước
gươm thề quyết chẳng dung giặc trời.
Chí
làm trai dặm ngh́n da ngựa
Gieo
Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao.
Giă
nhà đeo bức chiến bào
Thét roi cầu
Vị ào ào gió thu".
Nàng thấy h́nh ảnh của người chồng
rực rỡ, uy nghi như một trang dũng tướng
giữa đoàn quân:
"Aïo
chàng đỏ tựa ráng pha
Ngựa
chàng sắc trắng như là tuyết in".
Đó là về lí trí c̣n về mặt t́nh cảm th́:
"Đưa
chàng ḷng dặc dặc buồn
Bộ
khôn bằng ngựa, thủy khôn bằng thuyền".
"Bóng
cờ, tiếng trống xa xa
Sầu lên
ngọn ải, oán ra cửa pḥng"
4.1.2.Sau
hồi tiễn biệt người chinh phụ trở
về chốn pḥng khuê.
-Bằng
đôi cánh của trí tưởng tượng nàng đă
phóng tầm mắt ra chiến trường để theo dơi
cuộc sống, vận mệnh của chinh phu nơi
chiến địa.
+Cảnh chiến trường hiện lên trước
mắt nàng thật đen tối. Ở đây không hề
có tiếng ngựa hí, tiếng quân reo, hay tiếng va
chạm của vũ khí mà chỉ có một luồng
tử khí lạnh lẽo bao trùm.
Hồn tử sĩ gió ù ù thổi
Mặt chinh phu trăng dơi dơi theo
+Trong cảnh chiến trường đen tối
ấy, chinh phụ cũng đă h́nh dung ra cuộc sống
và vận mệnh của chinh phu. Cuộc sống của chàng
thật gian lao, vất vả:
Ôm
yên gối trống đă chồn
Nằm
vùng cát trắng, ngủ cồn rêu xanh
Rồi
hành quân di chuyển tưởng như không bao giờ
chấm dứt:
Nay Hán xuống, Bạch Thành đóng lại
+Giữa hoàn cảnh hiểm nghèo, gian lao ấy chinh
phu không c̣n giữ được khí thế hào hùng
của buổi đầu xuất quân. Chàng trở nên
mệt mỏi, bạc nhược trước cuộc
sống chiến tranh:
Hơi
gió lạnh người rầu mặt dạn
Ḍng
nước sâu ngựa nản chân bon
Năo
người áo giáp bấy lâu
Ḷng
quê qua đó mặt sầu chẳng khuây
+Nàng như đă nh́n thấy kết cục bi
thảm của chồng ḿnh ở chốn đạn
lạc, tên rơi:
Chinh phu tử sĩ mấy người
Nào
ai mạc mặt, nào ai gọi hồn?
hoặc
Phận trai già ruổi chiến trường
Chàng Siêu mái tóc điểm sương mới về
+Những trang thơ này của tác phẩm đă
đưa đến cho người đọc một
nhận thức: Chiến tranh phong kiến không có chỗ nào
dung hợp với con người, chiến tranh phong
kiến là đối lập với cuộc sống con người.
Trong quan niệm của nhà thơ những con người
tham gia vào cuộc chiến tranh là những con người
đi vào cơi chết. Quan niệm này thực chất là
một cách phản đối chiến tranh.
-Sau
khi trải qua những giây phút lo âu cho cuộc sống và
vận mệnh của chồng nơi chiến địa
chinh phụ trở lại với thực tại của ḿnh.
Giờ đây cuộc sống đơn chiếc, lẻ
loi gợi lên trong tâm trí nàng bao nhiêu câu hỏi về nguyên
nhân của sự xa cách:
Trong
cửa này đă đành phận thiếp
Ngoài
mây kia há kiếp chàng vay,
Những
mong cá nước sum vầy.
Bao ngờ
đôi ngả nước mây cách vời
Thiếp
chẳng tưởng ra người chinh phụ,
Chàng
há từng học lũ vương tôn
Cớ sao cách
trở nước non
Khiến
người thôi sớm thôi hôm những sầu
Khách
phong lưu đương chừng niên thiếu
Sánh
cùng nhau dan díu chữ duyên
Nỡ
nào đôi lứa thiếu niên
Quan
sơn để cách, hàn huyên bao đành
Ở
đây cái nhận thức đầu tiên rơ rệt
nhất của chinh phụ là cuộc sống hạnh phúc
của vợ chồng nàng bị phá vỡ, hai người
phải chia ĺa đôi ngả là hết sức vô lí, là không
thể chấp nhận được.
4.1.3.Tiếp
theo, người chinh phụ sống trong hoàn cảnh
vắng biệt
tin chồng.
-Chinh
phụ nhiều lần nhớ lại những lời
hẹn của chồng nhưng Người sao mười
hẹn chín thường
đơn sai, rồi tiếp theo có lúc nàng được
tin chồng, dần dần rồi vắng biệt. V́
vậy nàng đă phải sống trong một tâm trạng
chờ đợi, hi vọng rồi thất vọng đến
chua xót. Đau khổ v́ biệt li, v́ chờ đợi, v́
thất vọng đă làm cho nàng như khô héo thêm.
Chiến tranh đă lạm tàn phai nhan sắc, làm héo hon
tấm ḷng người vợ trẻ trông chồng.Sự
đối lập giữa con người và chiến tranh càng
trở nên mạnh mẽ.
Trâm
cài, xiêm giắt thẹn thùng
Lệch
ṿng tóc rối, lỏng ṿng lưng eo.
Nỗi
sầu muộn như ngày càng chồng chất thêm trong ḷng
chinh phụ, nó như một sức mạnh vật
chất đè nặng lên cuộc sống của nàng:
Sầu
ôm nặng hăy chồng làm gối
Muộn chứa đầy hăy thổi làm cơm
Chinh
phụ đă t́m mọi cách để giải sầu như
xem hoa, đánh đàn thậm chí dùng cả biện pháp
mạnh nhất là uống rượu, nhưng Sầu làm
rượu nhạt, muộn làm hoa
ôi.Nỗi sầu muộn vẫn lấn át tất cả,
nỗi sầu muộn đă làm cho nàng mất hết
mọi cảm giác trước cuộc sống.
-Mặt
khác sự xa cách như một luồng gió mạnh
thổi cháy bùng thêm khát vọng hạnh phúc ở chinh
phụ. V́ thế nàng đă nghĩ đến việc
được gần chồng và cuối cùng nàng đă t́m
đến giấc mộng, trong mộng nàng đă
được gặp lại người chồng thân yêu:
Duy
c̣n hồn mộng được gần
Đêm
đêm thường đếïn Giang Tân t́m người
T́m
chàng thưở Dương đài lối cũ
Gặp chàng nơi Tương Phố bến xưa.
Nhưng
mộng quá ngắn ngủi, vả lại mộng vẫn là
mộng, thực vẫn là thực không sao thay thế cho
nhau được. Trái lại cái đẹp đẽ
của hồn mộng càng làm cho cuộc sống của nàng
thêm chua xót hơn mà thôi:
Sum
vầy mấy lúc t́nh cờ
Chẳng
qua trên gối một giờ mộng xuân
Giận
thiếp thân lại không bằng mộng
Được
gần chàng bến Lũng thành quan
Khi
mơ những tiếc khi tàn
T́nh trong
giấc mộng muôn vàn cũng không
Người
chinh phụ nhận ra rằng cái hạnh phúc đáng quí
nhất đối với nàng vẫn là hạnh phúc
trần tục.
-Rồi
chinh phụ lại t́m cách lên cao để ngóng trông
chồng, nhưng lên cao nh́n khắp bốn bề Đông, Tây,
Nam, Bắc phía nào nàng cũng bắt gặp những
cảnh buồn hiu hắt, tiêu điều. Chưa hết
người chinh phụ lại ao ước có được
phép tiên để đi gặp chồng nhưng rồi nàng
phải thú nhận với ḷng ḿnh là điều đó không
bao giờ có được. Người chinh phụ đă
khai thác hết mọi khả năng, mong làm cho ḿnh
bớt sầu, bớt khổ, mong được gặp
lại chồng nhưng đằng nào cũng thấy
dựng lên những bức tường cao ngất. Bế
tắc đến tuyệt vọng, chinh phụ đă
phải thốt lên thật cay đắng:
Ḷng
này hóa đá cũng nên
E
không lệ ngọc mà lên trông lầu
Chinh
phụ tưởng chừng như không c̣n đủ
sức chịu nổi nỗi đau đớn phải lên
lầu một lần nữa. Cơn khủng hoảng tinh
thần đă lên tới đỉnh điểm, con người
thật trong chinh phụ đă bắt đầu cất
tiếng nói, nàng hối hận v́ giấc mộng công
hầu mà để chồng ra đi chinh chiến để
rồi hạnh phúc tuổi xuân bị dang dở:
Lúc
ngoảnh lại ngắm màu dương liễu,
Thà khuyên chàng đừng chịu sắc phong
Trong
con người chinh phụ giờ đây niềm tây đă
chiến thắng phép công. Nàng đă dám phủ nhận lí
tưởng công danh, nàng đă hiểu hạnh phúc
lứa đôi có ư nghĩa hơn chiếc ấn phong
hầu. Đây cũng là một nét tâm lí phổ biến
của con người thời đại lúc bấy
giờ, chàng trai trong Chinh phu ngâm khúc cũng đă thú
nhận:
Ḷng
ta không muốn mặc áo giáp
Bụng nàng há muốn giữ chinh y
-Ư
nghĩ Thà khuyên chàng đừng chịu tước phong
đặt vào hoàn cảnh lúc bấy giờ nó có ư nghĩa
lúc bấy giờ v́ nó coi trọng hạnh phúc, coi
trọng sinh mệnh của con người. Nó có ư nghĩa
phản chiến v́ nó đối lập với âm mưu
của giai cấp thống trị muốn dùng cái bả công
danh để thúc đẩy binh sĩ, tướng tá ra
trận để bảo vệ ngai vàng cho chúng, làm bia
đỡ đạn cho chúng. Nhưng do điểm
xuất phát của chinh phụ chỉ là hạnh phúc cá nhân,
cho nên phản ứng của nàng chỉ có thể dừng
lại ở mức độ đó.
4.1.4.Người
chinh phụ t́m cách giải quyết mối mâu
thuẫn giữa
niềm tây và phép công bằng sự cầu nguyện.
-Nàng cầu mong cho ông trời phù hộ cho chồng ḿnh trăm trận nên công và trở về trong ánh hào quang của chiến thắng với mọi vinh dự mà chế độ phong kiến có thể đưa lại cho những kẻ đă tận tâm phục vụ nó.
4.2.1.Giá trị phản chiến.
-Theo
dơi quá tŕnh diễn biến tâm trạng của chinh
phụ ta thấy có quá tŕnh vận động, phát
triển tuy rất chậm chạp khó thấy. Đôi với
cuộc chiến tranh mà chồng nàng tham gia, chinh phụ có
một thái độ mâu thuẫn- vừa tán thành, vừa
oán trách. Nhưng xét trong
toàn bộ khúc ngâm, chúng ta thấy phần chủ yếu
của tác phẩm không dành cho việc miêu tả thái
độ tán thành mà chủ yếu tập trung vào miêu
tả thái độ chán ghét chiến tranh.
-Về
chất lượng, phần tả cảnh tươi sáng
của cuộc chiến không phải không thành công nhưng
phần có sức rung cảm người đọc
mạnh mẽ nhất vần là phần miêu tả nỗi
sầu muộn của người chinh phụ. Phần
tả cảnh chiến trường đen tối đă
thật sự gây một ấn tượng bi thảm
rất nặng nề trong ḷng người đọc. V́
thế, mặc dù khúc ngâm kết thúc trong cảnh tưng
bừng của chiến thắng th́ âm hưởng của
toàn bộ khúc ngâm vẫn là âm hưởng bi ai, sầu oán.
Khuynh hướng chính toát ra từ h́nh tượng
của tác phẩm vẫn là khuynh hướng oán ghét
chiến tranh phi nghĩa phong kiến.
-Tuy
nhiên tiếng nói phản chiến ở đây sẽ có
những hạn chế nhất định..
-Tuy
tiếng nói phản chiến trong chinh phụ ngâm c̣n có
những hạn chế, nhưng tác phẩm đă thể
hiện được tấm ḷng, tư tưởng, t́nh
cảm của nhân dân ta trong một thời đại. V́
vậy về cơ bản tác phẩm vẫn chứa đựng
một giá trị tiến bộ.
4.2.2.Giá trị nhân đạo.
Theo
dơi quá tŕnh diễn biến tâm trạng của chinh
phụ chúng ta thấy sự thắng thế của
niềm tây đối với phép công là tất
yếu v́ nó có quá tŕnh chuẩn bị và những
diễn biến phù hợp với tâm lí nhân vật.
Vậy những nhân tố nào đă thúc đẩy sự
thắng thế đó?
-Trước hết đó là ḷng yêu thương
chồng của chinh phụ, một t́nh yêu chân thành, đằm
thắm có tính chất vị tha tuy có mang màu sắc quí
tộc nhưng nó cũng nằm trong truyền thống
tốt đẹp yêu
chồng, thương con của người phụ nữ
Việt Nam. Đây chính là cơ sở để nỗi ḷng
cuả nhân dân lao động đồng cảm với
nỗi ḷng của chinh phụ. Trong tác phẩm ta thấy
người chinh phụ muốn bù đắp cho những
khổ sở của chồng nơi chiến trường
và có khi nàng trách chồng bằng những lời đầy
yêu thương.
-T́nh yêu của nàng có tính chất vị tha nhưng
không khắc kỷ, yêu thương chồng tha thiết nhưng
đồng thời nàng cũng có ư thức khá sâu sắc
về quyền sống, quyền hưởng hạnh phúc
của ḿnh. Đây chính là nhân
tố quan trọng nhất thúc đẩy niềm tây
chiến thắng phép công.
Nói
tóm lại chinh phụ v́ yêu thương chồng mà oán ghét
chiến tranh, thái độ oán ghét đó được
tăng lên bởi ḷng khao khát hạnh phúc, bởi ư
thức về quyền sống cá nhân. Ghi nhận
được điều này là một đóng góp độc
đáo của Đặng Trần Côn vào kho tàng văn
học cổ Việt Nam trong quá khứ khi viết về
đề tài chinh phu, chinh phụ. Đây cũng chính là giá
trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm.
1.Tập
cổ và sáng tạo. |
- Hoàng Xuân Hăn cho rằng: Cả khúc ngâm này gần
như một bài tập cổ.
-Tóm lại từ những tài liệu vay mượn, tác giả đă tạo ra một tác phẩm có quy mô lớn hơn bất cứ tác phẩm nào mà ông đă vay mượn.
-Trong Chinh phụ ngâm nghệ thuật ước
lệ được sử dụng một cách phổ
biến. Ở đây
tất cả các chi tiết không nên hiểu theo ư nghĩa
xác thực của nó mà phải hiểu trong tính chất
ước lệ, tượng trưng.
- Sáng tác với bút pháp tượng trưng, ước lệ nhưng Chinh phụ ngâm vẫn phản ánh chân thực cuộc sống bởi v́ tác phẩm đă nói được vấn đề cơ bản của thời đại, tâm lí của con người thời đại.
3.Nghệ
thuật biểu hiện tâm trạng. |
-Tác giả đă xây dựng được một
kết cấu chặt chẽ, miêu tả được
sự diễn biến phong phú, tinh vi trong tâm t́nh chinh
phụ theo một tŕnh tự lôgic tâm lí chặt chẽ
bảo đảm sự thống nhất. Tác giả đă
gắn tâm lí với hoàn cảnh, tôn trọng quy luật tâm
lí. Đau khổ tăng dần, nhận thức về
chiến tranh cũng diễn biến. Đây là kết quả
của một quá tŕnh suy ngẫm và thể hiện.
-Tác giả đă chú ư tả cảnh để
tả t́nh, t́nh cảnh có khi thống nhất hoặc mâu
thuẫn.
-Tác giả đă sử dụng thủ pháp trùng
điệp (láy lại), liên hoàn (nối tiếp),
chiếu ứng (so sánh) để tạo ra những đợt
sóng cảm xúc.
-Tác giả đă chú ư khai thác nhiều yếu
tố tâm lí như liên tưởng, hồi tưởng, tưởng
tượng.
-Ngôn ngữ điêu luyện: Chinh phụ ngâm có
cả một kho từ vựng diễn tả t́nh cảm u
sầu với những sắc thái khác nhau.
*Tóm lại tác giả đă miêu tả tâm trạng của chinh phụ khá sâu sắc và tâm trạng ấy phản ánh con người Việt Nam- con người thiết tha với hạnh phúc. V́ thế tác phẩm giúp chúng ta hiểu con người Việt Nam trong hiện tại.
4.Thành
công của bản dịch. |
Bản dịch được coi như là một sáng
tác phẩm có giá trị độc lập tương
đối với nguyên
văn.
-Tuy
có những hạn chế nhất định, nhưng Chinh
phụ ngâm là tiếng nói khao khát hạnh phúc, khao khát ḥa
b́nh của dân tộc ta trong một thời đại
nhất định. Tiếng nói ấy càng có ư nghĩa hơn
bao giờ hết v́ nó là tiếng nói của một người
phụ nữ- nạn nhân đau khổ nhất của
chế độ cũ. Đương thời tác phẩm
đă góp phần vào cuộc đấu tranh cho quyền
sống, quyền hưởng hạnh phúc của con người,
đấu tranh chống áp bức của giai cấp
thống trị.
-Ngày nay, tiếng nói thiết tha với hạnh phúc t́nh yêu của tác phẩm c̣n rất có ích trong việc xây dựng tâm hồn cho thế hệ trẻ, đó cũng là lí do khiến cho tác phẩm được đưa vào chương tŕnh của phổ thông trung học.