CHƯƠNG
7:
THƠ NGUYỄN TRĂI
CHƯƠNG
7:
THƠ
NGUYỄN TRĂI
Nguyễn
Trăi không những là nhân chứng cho những biến động
băo táp của lịch sử thế kỷ XV mà c̣n là người
trực tiếp tham gia vào chính những biến động
đó. Ngay cả cuộc đời ông cũng là một
cuộc đời đầy những băo táp, thăng
trầm. V́ vậy, thơ ông thể hiện rơ một
vốn sống đă ở độ chín, một suy nghĩ
sâu sắc về cuộc đời đầy phức
tạp và một t́nh cảm nhân hậu đối với
thiên nhiên, con người.
Qua
thơ Nguyễn Trăi, ta có thể hiểu thêm rất
nhiều điều về con người Nguyễn Trăi
với những khát vọng lớn lao và những tâm tư
u uất.
I.
T̀NH YÊU QUÊ HƯƠNG TRONG THƠ NGUYỄN TRĂI
-
Đối với Nguyễn Trăi, quê hương chính là nơi
xuất phát của những t́nh cảm cao đẹp. Thơ
ông nói rất nhiều về quê hương bằng
một t́nh cảm thiết tha, lắng đọng.
Có
khi, đó là những hồi ức đẹp thời thơ
ấu:
Quê
cũ nhà ta thiếu của nào
Rau
trong nội, cá trong ao
(Ngôn
chí 13)
Có
khi, đó là nỗi nhớ day dứt trong những năm
tháng xa quê t́m đường cứu nước:
Cố
sơn tạc dạ triền thanh mộng
Nguyệt
măn B́nh Than tửu măn thuyền
(Mạn
hứng)
Có
khi, đó là t́nh cảm thân thiết của tác giả
đối với quê cũ, ngày trở về ở
ẩn:
Côn
Sơn suối chảy ŕ rầm
Ta
nghe như tiếng đàn cầm bên tai
(Côn
Sơn ca)
Nhà
thơ cảm thấy hạnh phúc với cuộc sống
thanh bần, trong sách nơi quê hương, nơi thanh
lọc tâm hồn, ǵn giữ phẩm giá người quân
tử:
Ngày
tháng kê khoai những sản hằng
Tường
đào ngơ mận ngại thung thăng
Yêu
quê hương, nhà thơ luôn trăn trở với khát
vọng: làm ǵ cho quê hương
Gia
sơn cách đường ngh́n dặm
Sự
nghiệp buồn, đêm trống ba
II. TẤM L̉NG ƯU QUỐC ÁI DÂN SÂU NẶNG
Trong
thơ Nguyễn Trăi, ta thường bắt gặp
những từ tiên ưu, ưu ái. Đây là nét ngời sáng
trong tâm hồn Nguyễn Trăi:
Bui
một tấc ḷng ưu ái cũ
Đêm
ngày cuồn cuộn nước triều đông
(Thuật
hứng 5)
Oải
ốc thê thân kham độ lăo
Thương
sinh tại niệm độc tiên ưu
B́nh
sinh độc băo tiên ưu chí
Tọa
ủng hàn khâm dạ bất miên
Gia
sơn đường cách ngh́n dặm
Ưu
ái ḷng phiền nửa đêm
Tóc
nên bạc bởi ḷng ưu ái,..
Xuất
phát từ một câu nói nổi tiếng của Phạm
Trọng Yêm đời Tống, từ tiên ưu thể
hiện rơ quan niệm sống cao cả: yêu nước thương
dân, chiến đấu suốt đời v́ nước v́
dân.
Suốt
đời ḿnh, Nguyễn Trăi xem công danh chỉ là điều
kiện giúp đời:
Một
thân lẩn quất đường khoa mục
Hai
chữ mơ màng việc quốc gia
V́
nợ quân thân chưa báo được
Hài
hoa c̣n bận dặm thanh vân (Ngôn chí 11)
Nhà
thơ luôn ư thức rơ ràng
về trách nhiệm của một kẻ sĩ chân chính:
Đầu
tiếc đội ṃn khăn Đỗ Phủ
Tài
c̣n lọ hái cúc Uyên Minh (Mạn thuật 9)
Quốc
phú binh cường chăng có chước
Bằng
tôi nào thuở ích chưng dân
Những
khát khao, mơ ước của Nguyễn Trăi luôn đi trước,
chỉ đạo mọi hành động:
Lẽ
có Ngu cấm đàn một tiếng
Dân
giàu đủ khắp đ̣i phương
(BKCG
43)
Vua
Nghiêu Thuấn, dân Nghiêu Thuấn
Dường
ấy ta đà phỉ sở nguyền
(Tự
thán 4)
Từ
mơ ước, tác giả thể
hiện rơ một quyết tâm hành động:
Khó
ngặt qua ngày xin sống
Xin
làm đời trị mỗ thái b́nh
(Tự
thán 28)
Trừ
độc, trừ tham, trừ bạo ngược
Có
nhân, có trí, có anh hùng
(BKCG
5)
Những
năm cuối đời nhiều bất hạnh, thơ
Nguyễn Trăi đôi khi lắng đọng một nỗi
niềm u uất, chán nản, bi quan, thậm chí thấm thía
giọng điệu mỉa mai cho sự nghiệp anh hùng
dở dang của ḿnh:
Say
mùi đạo trà ba chén
Tả
ḷng phiền thơ bốn câu
Uất
uất thốn hoài vô nại xứ
Thuyền
song thôi chẩm đáo thiên minh
Có
lúc, ông mỉa mai chính bản thân ḿnh:
Cưỡi
gió lên cao chín vạn tầng
Xưa
kia lầm ví với chim bằng
Có
lúc, thơ ông thấm lạnh một nỗi cô đơn
tê tái trong những đêm dài trên núi Côn Sơn:
Rượu
đối cầm đâm thơ một thủ
Ta
cùng bóng lẫn nguyệt ba người
Có
lúc, ông ví ḿnh như một chiếc thuyền con, giữa
trời chiều mênh mông chẳng biết ghé bến nào:
Thuyền
mọn c̣n chèo chẳng khứng đỗ
Trời
ban tối biết về đâu
Tuy
nhiên, vượt qua tất cả những bất hạnh,
thăng trầm của cuộc đời làm quan bị
ganh ghét, đố kỵ, Nguyễn Trăi vẫn giữ cho ḿnh
Một tấc ḷng son c̣n
nhớ chúa- Tóc hai phần bạc bởi thương thu. Có
âm điệu buồn trong thơ ông nhưng đó không
phải là âm điệu chủ đạo. Vấn đề
lớn lao nhất măi làm ông quan tâm chính là ưu quốc,
ái dân, lo cho đất nước và thương nhân dân.
Điều làm tỏa sáng nhân cách lớn lao của một
người anh hùng, một kẻ sĩ chân chính.
III.
MỘT TRÍ TUỆ UYÊN BÁC LUÔN T̀M HIỂU ĐỂ NẮM BẮT NHỮNG QUY LUẬT
VẬN ĐỘNG CỦA ĐỜI SỐNG
Trong
thơ ông, ta thường thấy những tư tưởng
triết học phương Đông được dân
tộc hóa và những kết luận có giá trị về
quy luật của đời sống. Nhà thơ là con người
giàu suy tư để dằn vặt với nỗi đau
hữu hạn của đời người cho dù đó là
cuộc đời của người anh hùng:
Kim
cổ vô cùng giang mạc mạc
Anh
hùng hữu hận diệp tiêu tiêu
(Văng
hứng)
Giang
san như tạc anh hùng thệ
Thiên
địa vô t́nh sự biến đa
Họa
phúc hữu môi phi nhất nhật
Anh
hùng di hận kỷ thiên niên (Quan hải)
Nhà
thơ có những kết luận có giá trị về vai tṛ
và sức mạnh vĩ đại của quần chúng,
những người làm nên lịch sử:
Phúc
chu thủy tín dân do thủy
Thị
hiểm nan bằng mệnh tại thiên (Quan hải)
Ở
yên th́ nhớ ḷng xung đột
Ăn
lộc đền ơn kẻ cấy cày
Có
khi, chính vốn sống, sự nếm trải trong cuộc
đời thăng trầm đă giúp nhà thơ thấy rơ
hơn bản chất của ḷng người:
Dễ
hay ruột biển sâu cạn
Khôn
biết ḷng người ngắn dài
Miệng
thế nhọn hơn chông mác nhọn
Ḷng
người quanh nữa nước non quanh
Phải
là người có vốn sống, sự từng trải
mới có thể có những nhận xét sâu sắc về
cuộc đời:
Tĩnh
lư càn khôn kinh vạn biến
Nhàn
trung nhật nguyệt trị thiên kim (Thu nguyệt ngẫu
thành)
IV.
MỘT CHÍ KHÍ HÀO HÙNG, MỘT NHÂN CÁCH CAO THƯỢNG:
Mạnh
mẽ, hào hùng, khẳng khái, trong sách, đó là nhân cách và
chí khí Nguyễn Trăi được thể hiện qua thơ
ông.
-
Nhà thơ luôn có ư thức vươn lên trong thử thách
để khẳng định chí khí hào hùng của ḿnh:
Khó
khăn th́ mặc có màng bao
Càng
khó bao nhiêu chí mới hào
Ông
thường thể hiện chí chí của ḿnh bằng
những h́nh ảnh kỳ vĩ:
Nghĩa
khí tảo không thiên chướng vụ
Tráng
tâm hô khởi bán phàm phong (Quá hải)
Với
bản lĩnh và nghị lực của một người
anh hùng, ông luôn tự hào, tự tin về ḿnh:
Thừa
chỉ ai rằng thời khó ngặt
Túi
thơ chứa hết mọi giang san (Tự thán 2)
Gánh
khôn đương quyền tướng phủ
Lui
ngơ được đất Nho thần (Trần t́nh 1)
V́
tự tin, tự hào nên trong bất cứ hoàn cảnh nào,
nhà thơ vẫn giữ được phong thái ung dung,
tự tại:
Đủng
đỉnh chiều hôm dắt tay
Trông
thế giới phút chim bay
Đạp
áng mây, ôm bó củi
Ngồi
bên suối gác cần câu
Quét
trúc bước qua ḷng suối
Thưởng
mai về đạp bóng trăng
Không
chỉ có phong thái ung dung tự tại, cách nói của nhà
thơ cũng thật khẳng khái, mạnh mẽ:
Dầu
bụt dầu tiên ai kẻ hỏi
Ông
này đă có thú ông này
Chớ
cậy sang mà ép nề
Lời
chẳng phải vẫn không nghe
-
Là một kẻ sĩ có nhân cách cao thượng
Nguyễn Trăi luôn tự hào về những năm tháng làm
quan thanh liêm của ḿnh:
Nhất
phiến đan tâm chân hống hỏa
Thập
niên thanh chức ngọc hồ băng
Đó
là một con người Cốt lănh hồn thanh chăng
khứng hóa, luôn sống thanh bạch, giản dị, không
chấp nhận luồn cúi để nhận bổng
lộc:
Mắt
ḥa xanh đầu dễ bạc
Lưng
không uốn, lộc nên từ
Cơm
kẻ bất nhân ăn, ấy chớ
Aïo
người vô nghĩa mặc, chẳng thà
Đó
cũng là con người trải bao thăng trầm dâu
bể, bao đau đớn bất hạnh vẫn cứ nh́n
cuộc đời bằng con mắt xanh, con mắt tin yêu,
hy vọng:
Tuổi
cao tóc bạc cái râu bạc
Nhà
ngặt đèn xanh con mắt xanh
Không
những thế, Nguyễn Trăi luôn luôn có ư thức
bảo vệ nhân cách trong sáng của ḿnh, chống
lại mọi cám dỗ của đời sống:
Ngọc
lành nào có tơ vết
Vàng
thực âu chi lửa thiêu
V. MỘT TÂM HỒN NHẠY CẢM RỘNG MỞ
Thơ
Nguyễn Trăi luôn chan ḥa t́nh cảm đối với thiên
nhiên, con người. Ông có cách nh́n, cách cảm tuyệt
với trước vẻ đẹp của thiên nhiên, chân
thành tha thiết trong t́nh bạn, hóm hỉnh nhưng
tế nhị, sâu sắc trong t́nh người.
-
Ông xem thiên nhiên là bạn, láng giềng, anh em, những người
an ủi ḿnh trên đỉnh Côn Sơn cô độc
C̣
nằm hạc lặc nên bầy bạn
Ủ
ấp cùng ta làm cái con
Láng
giềng một áng mây bạc
Khách
khứa hai ngàn núi xanh
V́
yêu thiên nhiên nên Nguyễn Trăi đă viết được
những câu thơ tuyệt vời về vẻ đẹp
của thiên nhiên:
Nước
biếc non xanh thuyền gối băi
Đêm
thanh nguyệt bạc khách lên lầu
Hương
cách gác vân thu lạnh lạnh
Thuyền
kề băi tuyết nguyệt chênh chênh
-
Với bạn, tác giả luôn bày tỏ tấm ḷng chân thành
tha thiết:
Có
thuở biếng thăm bạn cũ
Ḷng
thơ ngàn dặm nguyệt ba canh
Danh
thơm một áng mây nổi
Bạn
cũ ba thu lá tàn
-
Với con người, tác giả tỏ ra rất sâu
sắc, nhạy cảm trong khi phát hiện những
biến đổi, xao động phức tạp trong tâm
hồn con người:
Bài
thơ Tiếc cảnh 10, Cây chuối, cảnh hè,..
Sáng tác thơ của Nguyễn Trăi có trên 100 bài
thơ chữ Hán và 254 bài thơ chữ Nôm. Đặc
biệt, qua Quốc âm thi tập, ta có thể thấy rơ
những đóng góp đáng
trân trọng của Nguyễn Trăi về nhiều phương
diện mà tiêu biểu nhất là phương diện
thể thơ và ngôn từ:
1. Về thể thơ thất ngôn xen lục ngôn trong thơ Nôm Nguyễn Trăi |
-
Đây là một thể thơ được sáng tác dựa
trên quy cách và cấu trúc của thơ Đường
luật. Điểm khác biệt là ở hiện tượng
xen kẽ những câu sáu tiếng vào các câu 7 tiếng
của bài thơ bát cú lẫn tứ tuyệt luật Đường.
-
Số lượng các bài thơ được sáng tác
theo h́nh thức này rất lớn (186/254) chứng tỏ
rằng Nguyễn Trăi hoàn toàn có ư thức khi vận
dụng thể thơ này như một sự thử
nghiệm cho việc t́m ra một thể thơ mới cho dân
tộc, chống lại ảnh hưởng quá sâu sắc
của thi ca Trung Hoa.
-
Xét về tác dụng nghệ thuật, câu thơ 6
tiếng trong bài thơ thất ngôn xen lục ngôn khiến
lời thơ trở nên cô đọng, giản dị, ư
thơ mạnh mẽ, sắc sảo, thường phù
hợp với việc diễn đạt những chân lư
của đời sống, những quyết tâm hành động
của nhà thơ. Ngoài ra, cách ngắt nhịp phong phú
của câu thơ 6 chữ khiến nó có khả năng
diễn đạt được những cung bậc t́nh
cảm đặc biệt tinh tế, sâu sắc của con
người.
-
Tuy nhiên, sự xuất hiện của các câu thơ 6
chữ đă làm phá vỡ kết cấu hoàn chỉnh
của bài thơ Đường luật, dẫn đến
việc thất niêm, thất luật. V́ vậy, thể thơ
này ngày càng ít đực sử dụng, nhường
chỗ cho những thể thơ dân tộc khác hoàn
chỉnh hơn về mặt cấu trúc và niêm luật.
-
Bị chi phối bởi quan niệm thẩm mỹ của
văn chương trung đại, thơ Nôm Nguyễn Trăi
vẫn mang tính uyên bác, sử dụng nhiều điển
cố và các h́nh ảnh tượng trưng ước
lệ.
-
Tuy nhiên, nhờ sử dụng chữ Nôm, thơ Nguyễn
Trăi đă ngày càng dung dị, tự nhiên, gần gũi hơn
với cuộc sống của nhân dân lao động.
Từ ngữ trong thơ Nôm thường có sức gợi
tả mạnh và đặc biệt độc đáo.
-
Nhờ chữ Nôm, Nguyễn Trăi đă thành công trong
việc đưa vào thơ ca bác học nguồn thi
liệu vô cùng quư giá của tục ngữ, thành ngữ,
ca dao.