CHƯƠNG 4 : CHÂU ÂU NỬA ĐẤU THẾ KỶ XIX
BÀI 6: CHÂU ÂU TỪ SAU CÁCH MẠNG PHÁP ĐẾN HỘI NGHỊ VIENNE
BÀI 7: CÁC CUỘC CÁCH MẠNG TƯ SẢN Ở CHÂU ÂU TỪ 1830-1848
Từ
khóa: tổng tài, đế chế, thống nhất thị trường dân tộc.
Mục
đích: Chương IV gồm 2 bài:
Bài 6: Thông qua nội dung
của bài, giúp cho sinh viên hiểu tình hình nước Pháp sau CM 1789,
đặc biệt là giai đoạn
Napoléon nắm chính quyền. Sự thống trị và các cuộc chiến tranh
xâm lược của Napoléon đã ảnh hưởng khá lớn đến lịch sử các
nước châu Âu trong nửa đầu thế kỉ XIX. Sự thất bại của
Napoléon dẫn đến việc giai cấp phong kiến phản động nắm chính
quyền, và các tổ chức phản động được thành lập sau hội
nghị Vienne nhằm đàn áp phong trào DTDC ở các nước.
Bài 7: Qua một loạt các
cuộc CMTS nổ ra ở châu Âu trong những năm 30, 40 của thế kỉ
XIX, củng cố thêm khái niệm CMTS cho sinh viên. Thông qua diễn
biến của các cuộc CM, giáo viên giúp cho sinh viên nhận thấy sự
phản bội của gc tư sản, vai trò lịch sử của gc tư sản đến
đây không còn nữa, nhưng giai cấp công nhân chưa đủ lớn mạnh
để lãnh đạo phong trào. Qua các cuộc CM 48-49 ở châu Âu, giáo viên
hướng dẫn cho sinh viên thấy
những bài học kinh nghiệm mà giai cấp công nhân thu được qua các
cuộc đấu tranh của họ.
Yêu
cầu: Sinh viên cần nắm kĩ:
Bài 6:
-Tính chất của các
cuộc chiến tranh của Napoléon.
-Bản chất phản động
của chính quyền Napoléon, các đạo luật của Napoléon.
- Các tổ chức phản động
được thành lập sau hội nghị Vienne.
Bài 7:
- Nguyên nhân nổ ra
những cuộc CM 48-49.
- Ðặc điểm của từng
cuộc CM.
- Nguyên nhân thất bại
của các cuộc CM.
I. TỪ
CHẾ ÐỘ TỔNG TÀI ÐẾN ÐẾ CHẾ |
Sau khi phái Jacobins bị
thất bại, tư sản phản động lên nắm chính quyền dưới hình
thức quốc ước Thermidor và chế độ Ðốc chính. Những năm dưới
thời cai trị của quốc ước Thermidor và chế độ Ðốc chính là
những năm nhân dân Pháp sống trong bầu không khí chính trị đen
tối và thiếu thốn về kinh tế. Nhân dân đã nhiều lần nổi
dậy khởi nghĩa chống chính quyền. Tình hình này làm cho bọn
bảo hoàng mạnh lên và ráo riết hoạt động giành chính quyền.
Trong khi đó chế độ Ðốc chính tỏ ra mất uy tín do những khó
khăn về tài chính. Bên cạnh đó là khuynh hướng tả của một
số đại biểu trong quốc hội làm cho tư sản Thermidor lo ngại
sẽ trở lại chế độ chuyên chính dân chủ cách mạng. Do đó,
giai cấp tư sản cầm quyền lo sợ. Họ cho rằng cần phải có
một chính quyền mạnh để bảo đảm quyền lợi của họ, vì
vậy, họ đã nhờ đến bàn tay của Napoléon để làm cuộc đảo
chính vào ngày 18 tháng sương mù (11.1799). Sau cuộc đảo chính, chính
quyền nằm trong tay một ban Tổng tài lâm thời gồm 3 người:
Napoléon Bonaparte, Sièyes và Ducot.
1.
Chế độ Tổng Tài.
Một tháng sau ngày đảo chính, một bản
Hiến Pháp mới được ban hành vào tháng 12.1799. Theo Hiến Pháp, đứng
đầu nhà nước là ba vị Tổng tài. Napoléon là Tổng tài thứ
nhất, nắm toàn bộ quyền hành, hai vị kia chỉ là tư vấn.
Quyền Lập Pháp nằm
trong tay hai viện: Viện Bảo dân gồm100 người trên 25 tuổi và đoàn
Lập Pháp gồm 300 người trên 30 tuổi.
Cả hai viện đều không có quyền đề ra luật mà chỉ
thảo luận những dự án do chính phủ đưa ra.
Bộ máy tinh vi của Napoléon
thiết lập trong chế độ Tổng tài nhằm làm tê liệt những
quyền dân chủ của nhân dân. Thực chất của chế độ mới là
nền chuyên chế quân sự của phe đại tư sản mà Napoléon là người
đại diện. Chính sách nội trị của ông đã chứng tỏ rằng chính
phủ tư sản đã thủ tiêu những thành quả của cách mạng Pháp và
chỉ giữ lại những thành quả nào của cách mạng có lợi cho
giai cấp tư sản.
2.
Ðế chế I. (1804 - 1815).
Năm 1802, Napoléon
tự phong cho mình chức Tổng tài suốt đời, đến 1804 thì xưng
là Hoàng đế, lập ra Ðế chế I. Ðế chế I thực chất là nền
quân chủ tư sản nằm trong tay cá nhân Napoléon.
Sau khi tuyên bố đế
chế, một triều đình mới được tổ chức, họ Bonapate trở thành
một dòng vua mới của Pháp. Ðể kiện toàn bộ máy chính quyền,
Napoléon tiến hành những cải cách và ban hành nhiều bộ luật,
một số các bộ luật đó hiện nay vẫn được thi hành ở Pháp.
2.1.
Các bộ luật của Napoléon:
- Bộ Dân luật: thông qua
vào tháng 3.1804. Ðây là một văn bản có hệ thống mà mục đích
chính là đảm bảo quyền tư hữu của giai cấp tư sản. Bộ
luật này đặt địa vị người phụ nữ
rất thấp kém và bất lợi đối với anh em về quyền thừa
kế. Những nhà bình luận dù thiên vị nhất cũng đều cho rằng
so với pháp chế thời cách mạng, bộ luật này là một bước lùi.
- Bộ Hình luật: ra đời vào năm1811. Bộ
luật này qui định những vụ xử có tính chất hình sự. Hình
luật qui định duy trì tội tử hình, khôi phục hình phạt đánh
bằng roi đã bị cách mạng thủ tiêu, công nhận điều luật Le
Chapelier. Các công đoàn công nhân đều bị nghiêm cấm hoạt động
và những cuộc bãi công đều bị trừng trị nghiêm khắc. Công nhân
bị đặt dưới sự kiểm soát của chính phủ và bị kiểm tra
bằng sổ lao động (tiểu bạ công nhân). Công nhân cũng bị cấm
không được tổ chức và tham gia vào các cuộc bãi công.
- Bộ Thương luâtû (1807): pháp lý hóa
những quan hệ sản xuất TBCN dựa trên sự bảo đảm những
quyền tư hữu của giai cấp tư sản. Nó còn đề ra những khế ước
trong việc kinh doanh hoặc thành lập công ty, những qui định về
việc thanh toán nợ.
Tất cả những bộ luật
này tuy so với pháp chế thời kì cách mạng là một bước lùi nhưng
so với những luật lệ phong kiến đang tồn tại ở châu Âu, thì
đây làì những công trình tiến bộ của giai cấp tư sản.
2.2.
Chính sách đối với nhà thờ:
Napoléon đã dùng tôn giáo
như một công cụ phục vụ
sự thốïng trị của mình. Napoléon cho phép các Giáo hoàng được
bổ nhiệm các giám mục, đạo Thiên chúa
được truyền bá phổ biến và công khai. Ông tuyên bố đạo
Thiên Chúa trở thành tôn giáo thống trị trong nước Pháp.
2.3.Tổ
chức hành chính:
Bộ máy hành chính chuyên
chế được xây dựng nhằm bảo đảm cho sự thống trị của
Napoléon. Ông đã thiết lập một mạng
lưới cảnh sát và hệ thống quận trưởng ở hầu khắp các nơi
trên nước Pháp. Mạng lưới cảnh sát này nhằm tăng cường sự
độc tài của chính quyền Napoléon.
II. CÁC CUỘC CHIẾN TRANH THỜI NAPOLÉON |
1.
Tính chất.
Những cuộc chiến tranh
thời Napoléon mang tính chất xâm lược rõ ràng, khác hẳn về
bản chất chiến tranh thời kì cách mạng Pháp.
2.
Mục đích.
Mục đích chủ yếu của các cuộc chiến
tranh Napoléon I là giành lấy thị trường mới, giành lấy bá
quyền của Pháp trong công thương nghiệp, chính trị và quân sự
ở châu Âu. Ngoài việc vơ vét nguyên liệu, tiền của ở các nước,
Napoléon còn tước đoạt những tài sản tinh thần ở các nước mà
ông xâm lược.
3.
Các cuộc chiến tranh.
3.1.
Giai đoạn thắng lợi của những cuộc chiến tranh của Napoléon.
Trong giai đoạn đầu,
nhờ được rèn luyện trong cách mạng, quân đội Napoléon đã đánh
bại được những liên minh chống Pháp do Anh cầm đầu.
10.1805, quân Pháp bắt
được quân Áo ở Ulm.
12.1805, Pháp thắng Áo ở
Austerlitz, Áo hoàng phải ký hiệp ước Bratislava.
7.1806, Napoléon I lập ra hiệp bang Sông Rhin dưới quyền bảo
hộ của mình.
7.1807, thắng Phổ, Nga và ký hiệp ước Tilsit. Napoléon đề
nghị cùng Nga hoàng phân chia châu Âu: Nga chiếm Ðông Âu, Pháp
chiếm Tây Âu. Nga hoàng công nhận những thành quả của Napoléon và
cùng Napoléon tham gia vào cuộc phong tỏa lục địa của Pháp
chống Anh.
Thời kỳ này với sự
thất bại của Phổ, Pháp lập ra một hiệp bang sông Rhin mới dưới
quyền bảo hộ của mình, đế quốc La Mã Thần Thánh thành lập
từ năm 962 đến lúc bấy giờ đã bị tan rã.
Trong những cuộc xâm lược
của mình, Napoléon đã dùng nhiều biện pháp đối với các nước
bị chiếm như: sát nhập thẳng vào Pháp, hoặc chia thành từng
quận thuộc Pháp. Napoléon thiết lập chế độ tư sản ở những
nước bị chiếm. Lãnh thổ các nước bị chiếm đều do anh em
Napoléon đảm nhiệm, anh Joseph làm vua Tây Ban Nha, em Jérôme cai
trị ở liên bang sông Rhin, em rễ Murat làm vua xứ Naples, em Louis làm
vua Hà Lan kiêm vua Ý...
3.2.
Thời kì thất bại của Napoléon.
Từ 1809-1812 đế quốc Napoléon trải qua
một thời kỳ hòa bình và cũng là thời gian mà nó được mở
rộng hơn hết. Tuy nhiên, những khó khăn bên trong và bên ngoài đã
đưa đế chế đến chỗ sụp đổ nhanh chóng. Thêm vào đó, do
ảnh hưởng của phong trào đấu tranh của nhân dân Tây Ban Nha,
một phong trào chống đối Napoléon ở những nước bị xâm lược
nổ ra. Sau cùng, với sự thất bại của chiến dịch Nga 1815, đế
chế I nhanh chóng bị sụp đổ.
Napoléon buộc phải thoái vị và bị đày
sang đảo Elbe. Tư sản bỏ rơi Napoléon. Louis XVIII của dòng
Bourbons cùng quí tộc theo chân liên quân phong kiến trở về Pháp
nắm chính quyền. Một trăm ngày sau khi bị đày ở đảo Elbe, ngày
20.3.1815, Napoléon về đến Paris, trở lại làm vua, nhưng không
giữ được chính quyền trong bao lâu. Sau trận thất bại ở
Waterloo (1815), Napoléon phải thoái vị lần II và bị đày sang đảo
Saint Hélène. Dòng Bourbons trở lại thống trị nước Pháp.
?-
Chính sách đối nội và đối ngoại của Ðế chế I ?
?-
Bản chất các cuộc chiến tranh của Napoléon ?
III. HỘI NGHỊ VIENNE |
1.
Hội Nghị Vienne. (1.1.1814 - 9.6.1815)
Sau khi đánh bại Napoléon
I, các nước đồng minh thắng Pháp đã triệu tập một hội nghị
ngoại giao lớn và quan trọng nhất để định đoạt cục diện
mới của châu Âu và thế giới, theo hướng thỏa mãn những tham
vọng phản động của kẻ chiến thắng.
1.1.
Mục đích - thành phần và cách tiến hành hội nghị:
Hội Nghị được tiến hành nhằm 3 mục
đích:
- Trấn áp phong trào đấu
tranh dân tộc ở các nước châu Âu và khôi phục chế độ phong
kiến chuyên chế ở những nước
bị Napoléon I chiếm đóng.
- Củng cố chiến thắng
vừa giành được và ngăn cản sự phục hưng của Pháp.
- Chia nhau đất ở châu
Âu và các thuộc địa nhằm thỏa mãn tham vọng các nước lớn.
Ðại biểu các nước châu Âu được mời
tới dự, thời gian từ 1.1.1814 - 9.6.1815.
Ngày nào cũng có tổ chức những cuộc khiêu
vũ, biểu diễn nghệ thuật, săn bắn, đi dạo... cho các vua và
sứ thần đến họp, nhưng hội nghị không hề họp một lần nào
để thảo luận cả. Hội nghị chỉ lo khiêu vũ nên người ta đã
nhận xét: Hội nghị không tiến, hội nghị nhảy múa.
Tất cả các nghị quyết
đều do Ủy ban bốn nước quyết định,
gồm đại biểu các nước thắng trận: Anh-Nga-Áo-Phổ. Trong
quá trình tranh chấp để đạt những mục tiêu ấy ở hội nghị,
những mâu thuẫn phức tạp đã nổi lên: mâu thuẫn giữa các nước
chiến thắng và các nước chiến bại, mâu thuẫn giữa bọn
thống trị phản động và nhân dân bị trị ở các nước, mâu
thuẫn giữa các nước chiến thắng đang tranh giành quyền lợi
lẫn nhau.
Trong lúc hội nghị đang
kéo dài vi không giải quyết được sự tranh chấp quyết liệt
giữa các nước chiến thắng, thì có tin Napoléon từ Elbe trở về
Pháp, các nước chiến thắng tham gia hội nghị phải vội vàng hòa
hoãn mâu thuẫn lẫn nhau để nhanh chóng tìm biện pháp thỏa hiệp
hòng tập họp lực lượng chốïng Napoléon. Cuối cùng các nước
thỏa thuận kí một văn
kiện kết thúc hội nghị vào 9.6.1815.
1.2.
Các vấn đề tranh chấp tại Hội Nghị:
- Vấn đề Ba Lan - Dắc đen:
Trước kia Ba Lan bị Nga,
Áo, Phổ xấu xé nhiều phen, tới khi Napoléon đánh bại 3 nước
kia, chiếm được Ba Lan (1804), Napoléon I đã thống nhất Ba Lan dưới
hình thức đại công quốc Vác xa va do vua Dắc den cai trị, đặt
trong đồng minh của Pháp. Nay Nga muốn đặt Ba Lan trong biên giới
Nga nên kéo Phổ theo, chống lại sự phản đối của Áo - Anh.
-Vấn đề Ðức: Ðức tồn tại dưới hình
thức đế quốc La Mã Thần Thánh, gồm nhiều nước Ðức nhỏ, do
vua Áo làm hoàng đế. Năm 1806 sau khi đánh bại Áo, Napoléon I
giải tán nó, đẩy Áo- Phổ ra ngoài, lập nên hiệp bang sông Rhin.
Nay vấn đề đặt ra là phải tổ chức lại nước Ðức mà Napoléon
đã đơn giản đi khá nhiều.
Nga chủ trương bảo tồn
Phổ và Aïo, nhưng thủ tướng Áo muốn
duy trì tình trạng chia cắt để Áo có ưu thế; đang giằng co thì
Napoléon trở về, các nước vội vã thiết lập Liên Hiệp Ðức.
1.3.
Kết quả của Hội Nghị.
- Pháp trở lại biên giới như hồi trước
cách mạng, phải bồi thường 700 triệu Francs chiến phí, và để
cho quân đồng minh chiếm đóng trong 3 năm.
- Thiết lập một phòng thủ chống Pháp
ở châu Âu gồm các nước Ðức, Hà Lan, Thụy sĩ..., những nước
này trở thành căn cứ quân sự chống Pháp.
- Chia lại bản đồ châu Âu theo tham vọng
của những nước lớn.
2.
Các tổ chức phản động đàn áp phong trào cách mạng.
2.1.
Liên minh Thần Thánh (La Sainte Alliance). 26 - 9 - 1815
Ðể củng cố Hội Nghị Vienne và duy trì
chế độ quân chủ chuyên chế phản động ở châu Âu, Nga hoàng
Alexendre I đề xướng việc thiết lập Liên minh Thần Thánh bao
gồm những nước theo đạo Thiên chúa. Dưới danh nghĩa tôn giáo,
vua các nước Nga - Áo - Phổ kêu gọi các nước theo đạo Thiên chúa
hãy ủng hộ lẫn nhau để bảo vệ tôn giáo và vương quyền;
thực ra để đàn áp phong trào cách mạng ở bất kỳ nước nào.
Người lãnh đạo Liên
minh Thần Thánh là hoàng thân Metternich. Ðể quyết định các công
việc chung, các nước tham gia Liên minh Thần Thánh sẽ họp hội
nghị từng thời kỳ một. Những thành viên của Liên minh Thần Thánh
có trách nhiệm giúp đỡ lẫn nhau bằng cách can thiệp bằng
những nước có phong trào cách mạng, hoạt động nổi bật của
Liên minh Thần Thánh là đàn áp phong trào cách mạng ở Tây Ban Nha
và ở Ý.
2.2.
Ðồng Minh Bốn Nước ( Liên Minh Tứ Cường.)
Chính Phủ Anh thấy rằng
sự thiết lập Liên minh Thần Thánh và hiệp ước Paris chưa đủ
để đảm bảo cho việc ổn định bản đồ Châu Âu,
chưa thể ngăn ngừa Pháp ngóc đầu lên được, cần phải có
một tổ chức chặt chẽ và có thực lực hơn; nên ngày 20 - 11 -
1815, bốn nước: Anh - Nga - Áo - Phổ bí mật ký kết một hiệp ước
thiết lập Ðồng minh bốn nước nhằm ngăn chặn không cho triều
đại Napoléon được lập lại, duy trì trật tự cũ, đàn áp phong
trào cách mạng ở các nước.
Bài
7:
CÁC CUỘC CÁCH MẠNG
TƯ SẢN Ở CHÂU ÂU |
I. TÌNH HÌNH CÁC NƯỚC CHÂU ÂU NỬA ÐẦU THẾ KỶ XIX |
Sau khi Napoléonoléon thất
bại, các thế lực phản động tạm thời thắng thế ở Pháp và
châu Âu. Sự thắng lợi tạm thời của các thế lực này có thể
gây khó khăn, nhưng không ngăn chặn được sự phát triển của
chủ nghĩa tư bản. Từ những năm 30 đến 40 của thế kỷ 19;
nền kinh tế các nước châu Âu có nhiều bước phát triển quan
trọng. Thời kỳ này cách mạng công nghiệp bắt đầu lan rộng
khắp các nước châu Âu và Bắc Mỹ. Anh đã hoàn thành cách mạng
công nghiệp và phát triển mạnh nền kinh tế của mình. Pháp thì
đang tiến hành cách mạng công nghiệp. Ở những nước nửa phong
kiến, nền kinh tế tư bản chủ nghĩa tuy phát triển khó khăn hơn
nhưng hầu như không có nước nào là không có
những vùng sản xuất công nghiệp lớn (thí dụ: Ðức, Ý, Áo...).
Sự phát triển của nền
kinh tế tư bản chủ nghĩa đã làm nảy sinh những nguyện vọng dân
chủ, dân tộc.. Do sự phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa,
thế lực kinh tế của giai cấp tư sản tăng lên, họ tìm cách lôi
kéo nhân dân vào những cuộc đấu tranh chống phong kiến để giành
lấy quyền chính trị. Vì vậy trong nửa đầu thế kỷ XIX, phong
trào cách mạng tư sản nổ ra ở các nước Châu Âu.
II. CÁC CUỘC CÁCH MẠNG TƯ SẢN TRONG NHỮNG NĂM 30 |
1.
Cách mạng ở Tây Ban Nha (1820 - 1823).
Cách mạng Tây Ban Nha là
một trong những phong trào cách mạng đầu tiên mở màn cho cuộc
đấu tranh dân chủ ở châu Âu. Cách mạng bắt đầu bằng một
cuộc khởi nghĩa trong quân đội, dưới sự lãnh đạo của đại
tá Riégo, một người có tinh thần dân chủ và yêu nước. Nghĩa
quân đòi thi hành bản Hiến Pháp tư sản (ra đời năm 1812). Trước
cao trào cách mạng, vua Ferdinand VII phải thừa nhận Hiến Pháp
1812, và tiến hành một số cải cách tư sản như: triệu tập
Quốc Hội, tuyên thệ trung thành với Hiến Pháp, bãi bỏ tòa án
Giáo Hội...
Tháng 11.1823, quân đội
Pháp theo lệnh của Liên minh Thần Thánh đã tiến vào Tây Ban Nha,
đàn áp phong trào cách mạng, xử tử Riégo. Cách mạng bị dập
tắt, chế độ chuyên chế được lập lại ở Tây Ban Nha. Phong trào
thất bại do những quí tộc sĩ quan cao cấp không tiến hành cách
mạng một cách triệt để, không liên hệ với quần chúng nhân dân,
bên cạnh đó, những hoạt động của các thế lực phản động cũng
góp phần làm phong trào bị thất bại.
2.
Cách mạng ở Pháp.
Từ 1815 đến 1830, sau khi
Napoléon I thất trận, một chế độ chính trị phản động được
lập lại ở Pháp. Louis XVIII (1815-1820) và Charles X (1824-1830) đại
diện cho bọn quí tộc, thay nhau cai trị nước Pháp dựa theo bản
Hiến chương. Ðây là một chế độ chính trị dựa theo chế độ
quân chủ lập hiến ở Anh, nhưng quyền hành của nhà vua khá
rộng rãi. Quyền hành của quốc hội bị hạn chế rất nhiều, chính
phủ chịu trách nhiệm trước nhà vua chứ không phải trước
quốc hội. Sự thống trị khắc nghiệt của chính quyền đã gây
bất mãn trong quần chúng nhân dân, vì vậy, một phong trào chống
đối vương triều Bourbons ngày càng phát triển. Giai cấp tư sản
cũng bất mãn với vương triều Bourbons,
đòi hỏi những quyền tự do dân chủ, và giành quyền
thống trị cho Tư sản.
Năm 1830, khi Charles X đưa
ra những sắc lệnh mới với nội dung chủ yếu là thủ tiêu tất
cả những quyền tự do còn lại (giải tán viện Ðại biểu, tước
quyền chính trị của giai cấp tư sản, hạn chế quyền tự do báo
chí, ngôn luận...). Những sắc lệnh này làm cho sự chống đối
của quần chúng nhân dân và tư sản ngày càng gay gắt. Một phong
trào chống đối chính quyền nổ ra. Khắp Paris mọc lên các chướng
ngại vật; công nhân ở ngoại ô Paris đòan kết với sinh viên và
những người tiểu tư sản đã đứng lên chống với quân đội
nhà vua.
Cuộc chiến đấu diễn
ra trong 3 ngày từ 24 đến 27.7.1830, tại khu Saint Antoine. Quần chúng
nhân dân đã chiến đấu rất anh dũng. Sau 3 ngày chiến đấu, nhân
dân đã giành được thắng lợi, Charles X từ chức, trốn sang Anh.
Lợi dụng thành quả cách
mạng của quần chúng nhân dân, giai cấp tư sản đã đưa Louis
Philippe lên làm vua, lập ra một triều đại mới gọi là Vương
triều tháng bảy. Ðây là một nền quân chủ tư sản do Louis
Philippe, đại diện cho tư sản tài chính nắm chính quyền.
3.
Cách mạng ở Ý.
Trong những năm đầu
thế kỷ XIX, nhân dân Ýï bị đặt dưới sự thống trị của
phong kiến trong nước và phong kiến nước ngoài (Áo). Ðiều
này đã gây cho nhân dân Ý nhiều đau khổ. Vì vậy, một phong trào
phản kháng chính quyền của nhân dân
do giai cấp tư sản liên minh với tầng lớp quí tộc mới,
đã phát triển trong những năm 20 của thế kỷ XIX ở Ý.
Cách mạng bắt đầu từ
cuộc khởi nghĩa quân sự năm 1820 với sự tham gia bí mật của
những người Carbonarie. Tổ chức Carbonarie gồm những quí tộc, sĩ
quan, tư sản, trí thức cách mạng..Họ chủ trương giải phóng Ý
khỏi Áo, thành lập một nước Ý thống nhất theo chính thể quân
chủ lập hiến, thực hiện một số cải cách tư sản.
Cuộc đấu tranh của
những người Carbonarie tuy dũng cảm, những đã bị liên minh Thần
Thánh đàn áp. Nghĩa quân bị đánh tan vào cuối tháng 3 năm 1831,
chế độ chuyên chế được lập lại ở Ý. Cuộc cách mạng 1821
ở Ý thất bại không phải chỉ do sự can thiệp của liên minh
Thần Thánh, mà còn do sự yếu
kém của bản thân phong trào, không liên kết được với quần chúng
nhân dân.
4.
Cách mạng ở Ðức.
Do ảnh hưởng của cách
mạng 1830 ở Pháp, một phong trào dân tộc dân chủ bùng nổ ở Ðức.
Phong trào đòi hỏi xóa bỏ chế độ phong kiến lỗi thời và
chống việc chia cắt đất nước. Tuy nhiên, phong trào nhanh chóng
bị dập tắt vì giai cấp tư sản Ðức tỏ ra nhu nhược trước
quí tộc phong kiến, chúng không dám tiến hành cách mạng đến cùng
và chỉ đòi hỏi những yêu sách vụn vặt, chủ trương thỏa
hiệp với chính quyền phong kiến.
Ngoài ra, trong những năm
30 của thế kỷ 19 còn có những phong trào cách mạng nổ ra ở Ba
Lan, Bỉ, Hy Lạp... Với sự thắng lợi ở Bỉ và Hy Lạp, các
quốc gia độc lập được thành lập.
III. PHONG TRÀO CÁCH MẠNG 1848 Ở CHÂU ÂU |
1.
Ở Pháp.
Do những điều kiện
lịch sử nhất định nên năm 1848 Pháp phải làm một cuộc cách
mạng mới. Ðây là một cuộc cách mạng tiến hành trong điều
kiện cách mạng tư sản đã hoàn thành vào cuối thế kỷ XVIII.
Nhiệm vụ của cách mạng lần này không phải lật đổ chế độ
phong kiến nữa, mà là việc lật đổ sự thống trị chật hẹp
của tư sản tài chính để mở rộng quyền chính trị cho tầng
lớp tư sản công nghiệp.
1.1.
Tình thế cách mạng: năm 1848 ở Pháp đã có những biến đổi khá
lớn về kinh tế. Tuy chưa phải là một nước tư
bản giàu mạnh nhưng Pháp đã đi sâu vào con đường công nghiệp
hóa tư bản chủ nghĩa.
Quyền thống trị bấy
giờ nằm trong tay tư sản tài chính, đại diện cho các chủ ngân
hàng ở Pháp. Các tầng lớp khác của giai cấp tư sản, đặc
biệt là tư sản công nghiệp, là tầng lớp có thế lực kinh tế
rất lớn, nhưng không có thế lực về chính trị. Do đó, yêu
cầu của tư sản công nghiệp là mở rộng chính quyền để các
tầng lớp tư sản tham gia một cách rộng rãi. Bên cạnh sự
chống đối của tư sản là sự chống đối của quần chúng nhân
dân đối với chính quyền của Louis Philippe. Ðời sống của nông
dân, thợ thủ công vô cùng khốn khổ, vì thế họ đã đứng lên
để lật đổ chính quyền.
1.2.
Cách mạng bùng nổ: Sự chống đối chính quyền của giai cấp tư
sản là việc tổ chức các
buổi tiệc gọi là Les banquets. Tại các bữa tiệc, sau khi ăn
uống no nê, giai cấp tư sản hô khẩu hiệu chống chính quyền: Ðả
đảo Guizot. Một bữa tiệc lớn được ấn định sẽ tổ chức vào
ngày 22-2-1848 nhưng chính quyền ra lệnh cấm không được đến
dự tiệc. Giai cấp tư sản không muốn tiến hành cách mạng nên
ở nhà, trong khi đó công nhân, thợ thủ công, sinh viên đã kéo đến
nhà tiệc. Các hội cách mạng ra một bản kêu gọi khởi nghĩa. Các
chướng ngại vật được dựng lên ở nhiều nơi. Chính phủ hạ
lệnh tập họp quân vệ quốc, nhưng phần lớn vệ binh đã chạy
sang hàng ngũ công nhân. Quần chúng hô khẩu hiệu Ðả đảo
Guizot. Vua quyết định cách chức Guizot nhưng đã quá muộn. Quần
chúng kéo xuống đường, những cuộc xung đột vũ trang đã nổ ra
giữa quần chúng nhân dân và quân chính phủ. Thế là cách mạng bùng
nổ.
Sau 3 ngày đấu tranh anh dũng,
quần chúng nhân dân ở Pháp đã giành được thắng lợi. Sáng ngày
24-2 quân khởi nghĩa đã chiếm được trại lính và các kho vũ khí
ở thủ đô. Louis Philippe trốn khỏi nước Pháp.
Kết quả của cách
mạng: tư sản đã gianìh lấy thành quả cách mạng của quần chúng
nhân dân và lập nên một chính phủ lâm thời. Dưới áp lực
quần chúng nhân dân, chính quyền tuyên bố nền Cộng Hòa II
(24-2-1848).
1.3.
Hoạt động của chính phủ lâm thời.
Chính phủ lâm thời
thực chất là một chính phủ thỏa hiệp giữa những giai cấp,
những tầng lớp làm cách mạng có quyền lợi đối địch nhau. Do
đó quá trình tồn tại của chính phủ lâm thời cũng là quá trình
đấu tranh giai cấp phức tạp, đi từ hợp tác giai cấp đến đối
kháng giai cấp. Chính phủ lâm thời ra sắc lệnh tổ chức Công xưởng
quốc gia và lập ra Uíy ban lao động để giải quyết vấn đề
lao động cho nhân dân. Thực ra, hai cơ quan này không hoạt động
được vì không có kinh phí, thậm chí nó còn tạo ra sự chia rẽ
giữa công nhân và nông dân vì tư sản đã đánh thuế vào nông dân
để chi phí cho hoạt động của Công xưởng quốc gia.
Những việc làm của chính
phủ lâm thời dần dần làm tiêu tan những ảo tưởng ban đầu
của quần chúng nhân dân đối với chế độ mới.
Giai cấp tư sản tổ
chức tuyển cử bầu Quốc hội để ổn định chế độ.
1.4.
Nội chiến tháng sáu và sự thất bại của cách mạng.
Quốc hội lập hiến khai
mạc ngày 4-5-1848, đa số đại biểu là những người Cộng Hòa ôn
hòa, công nhân chỉ có 18/880 ghế. Chính phủ lâm thời từ chức.
Quốc hội lập hiến thành lập một chính phủ mới gọi là Ủy
ban chấp hành, chiếm đa số trong Ủy ban là những người Cộng Hòa
ôn hòa liên hệ chặt chẽ với đại tư sản.
Những hoạt động của
Quốc hội lập hiến ngày càng tỏ rõ bản chất giai cấp tư
sản. Chính phủ bác bỏ đề nghị thành lập Bộ Lao động,
quyền tự do báo chí bị hạn chế gây ra những bất mãn trong nhân
dân. Ngay cả chính sách ngoại giao cũng làm nhân dân bất bình.
Quốc hội thi hành chính sách ngọai giao phản dân chủ, giúp đỡ
cho Nga Hoàng đàn áp phong trào cách mạng ở Ba Lan ...
Trước bản chất phản
động của Quốc hội, quần chúng nhân dân đã đứng lên tổ
chức các cuộc biểu tình, tuyên bố giải tán Quốc hội và đòi
thành lập một chính phủ mới với những đề nghị tiến bộ như:
đánh thuế vào người giàu, tổ chức lao động, giúp đỡ phong trào
cách mạng Ba Lan... Cuộc biểu tình của quần chúng nhân dân nhanh
chóng bị đàn áp, các lãnh tụ phong trào bị bắt.
Chính quyền quyết định
trả thù quần chúng nhân dân bằng cách đóng cửa Công xưởng
quốc gia, hàng trăm ngàn công nhân bị ném ra vỉa hè. Ðể trả
lời hành động vũ lực đó, một cuộc tổng khởi nghĩa của
quần chúng nhân dân đã nổ ra chống chính quyền. Chiều 22. 6, trên
quãng trường Panthéon, công nhân đã họp mít tinh và quyết định
cầm vũ khí chiến đấu. Vài giờ sau, hơn 600 chiến lũy mọc lên
khắp đường phố, kế hoạch tác chiến được vạch ra, các
chiến lũy công nhân phất phới cờ đỏ ghi khẩu hiệu Bánh mì
hay đạn chì, Ðạn chì hay việc làm; Nền cộng hòa xã hội muôn
năm.... Trưa ngày 23. 6, tiếng súng giao tranh bắt đầu nổ. Nội
chiến bắt đầu. Sát cánh cùng công nhân công xưởng quốc gia còn
có công nhân cơ khí, đường sắt, thợ mộc, những phụ nữ và
thiếu nhi mang thực phẩm tiếp tế và giúp việc băng bó cho họ;
họ đã chiến đấu một cách dũng cảm. Công nhân
định chiếm Tòa Thị Chính, nhưng sang ngày 25. 6, Cavaignac đã
đàn áp phong trào công nhân một cách tàn nhẫn. Gần 20 vạn quân
đủ loại được tập trung để tấn công vào công nhân. Ðến ngày
26. 6, chiến lũy cuối cùng của công nhân bị triệt hạ. Cuộc
khởi nghĩa bị dìm trong biển máu.
Cuộc khởi nghĩa tháng sáu
bị thất bại vì thiếu một trung tâm chỉ đạo thống nhất, các
chỉ huy ở các trung tâm chiến đấu thiếu liên hệ với nhau.
Trong cuộc chiến đấu này giai cấp công nhân đã chiến đấu
một cách đơn độc vì không có sự ủng hộ của nông dân. Tuy
nhiên trong thất bại đó, giai cấp vô sản đã rút ra những bài
học kinh nghiệm quí báu. Mác đã cho rằng Cách mạng thất bại,
nhưng thất bại trong quang vinh, "Cách mạng thất bại, nhưng cách
mạng muôn năm" .
1.5.
Thoái trào của cách mạng:
Sau khi tiêu diệt khởi
nghĩa tháng 6, giai cấp tư sản đã thiết lập một chế độ chính
trị phản động với những cuộc khủng bố gắt gao. Ngày
10.12.1848, họ tổ chức bầu cử Tổng Thống. Bầu cử kết thúc
với sự thắng cử của Louis
Napoléon Bonaparte.
Sau khi bầu xong Tổng
Thống, tư sản tổ chức bầu Quốc hội Lập pháp vào ngày
29.5.1849. Chiếm đa số ghế trong Quốc hội Lập pháp là phe Trật
tự (bảo hoàng). Phái Núi còn lại trong Quốc hội là một cái gai
đối với chính phủ nên họ tìm cách thanh tóan sự hiện diện
của phái Núi.
Sau khi thanh tóan xong phái
đối lập, phe Tổng Thống và phe Trật tự nhất trí nhau đặt cơ
sở cho chế độ phản động ở Pháp bằng cách thông qua một số
đạo luật phản động về giáo dục, tuyển cử, báo chí... Chính
sách thống trị của Louis Napoléon Bonaparte làm mất hết những
quyền tự do dân chủ của người dân. Khi những nguy cơ cách
mạng đã giảm, mâu thuẫn trong nội bộ giữa phe Trật tự và
Tổng Thống bắït đầu nổi lên. Giai cấp tư sản bên ngoài
Quốc hội thấy rằng cuộc xung đột giữa Tổng Thống và Quốc
hội không có lợi cho họ, họ cần có một chính quyền mạnh, vì
thế, họ ủng hộ Louis Napoléon Bonaparte để ông tiếp tục cai
trị một cách độc đoán. Louis Napoléon Bonaparte làm một cuộc đảo
chính: vào ngày 2.12.1851. Một năm sau ngày đảo chính, Louis Napoléon
Bonaparte lên ngôi hoàng đế, lấy danh hiệu là Napoléon III, lập ra
Ðế chế thứ II. Nền Cộng Hòa II của Pháp chấm dứt.
Cách mạng thất bại vì sự phản bội
của tư sản. Họ sẵn sàng đầu hàng thế lực của Louis Napoléon
Bonaparte. Bản thân giai cấp công nhân chưa có một chính đảng, chưa
đủ sức giáo dục nông dân để thiết lập một liên minh công nông
vững chắc, họ vẫn còn ảo tưởng về nền Cộng Hòa, đến tháng
6.1848, ảo tưởng này mới chấm dứt.
Cuộc cách mạng 1848 có
ý nghĩa lịch sử sâu sắc, nó tỏ rõ sự đối kháng giai cấp
trong xã hội lúc bấy giờ: tư sản - vô sản, đồng thời nó cũng
vạch rõ sự phản bội của giai cấp tư sản và chỉ rõ những
thắng lợi mà giai cấp vô sản giành được trong những ngày tháng
Sáu, do đó Mác viết Cách mạng đã chết, nhưng Cách mạng muôn năm.
?-
Những điểm khác biệt cơ bản giữa CM 1789 và
CM 1848 ở Pháp?
2.
Cách mạng 1848 ở Ðức.
2.1.
Tình hình nước Ðức trước cách mạng.
Giữa thế kỷ XIX, Ðức
vẫn là một quốc gia phong kiến với tình trạng chia cắt phức
tạp về chính trị: gồm 34 vương quốc lớn nhỏ khác nhau và 4 thành
thị tự do. Mỗi vương quốc có một hệ thống hành chính, đo lường,
thuế quan và tiền tệ khác nhau.
Trong khi các quốc gia
tiến tiến như Anh, Pháp, Mỹ đã có một nền kinh tế tư bản
chủ nghĩa phát triển thì ở Ðức chế độ sở hữu phong kiến
vẫn tồn tại và là một trở ngại của Ðức trên con đường phát
triển công nghiệp tư bản. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của sự
tiến bộ của khoa học kỹ
thuật ở châu Âu, nền kinh tế Ðức cũng phát triển theo trào lưu
đó. Năm 1822 cả nước Ðức
chỉ có 2 máy hơi nước, 1847 có 1139 máy và 2300 km đường sắt...
Giai cấp tư sản Ðức chú ý xây dựng và phát triển những ngành
công nghiệp nặng như: khai mỏ, hóa chất...
Cho đến trước 1848 ở
Ðức, giữa tính chất của lực lượng sản xuất với quan hệ
sản xuất đã có nhiều mâu thuẫn; do đó, yêu cầu lịch sử
của Ðức là phải có một cuộc cách mạng làm cho quan hệ sản
xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản
xuất. Ðồng thời, việc thiếu một thị trường nội địa chung
đã thúc đẩy giai cấp tư sản làm cách mạng để thống nhất Ðức,
vì sự chia cắt phức tạp ở Ðức là một yếu tố làm cho kinh
tế Ðức phát triển chậm. Tình hình kinh tế và xã hội ở Ðức
đã ảnh hưởng đến thái độ của giai cấp tư sản. Họ muốn bãi
bỏ những đặc quyền phong kiến, nhưng không muốn lật đổ chế
độ chuyên chế, họ muốn có một thị trường thống nhất để
kinh doanh nhưng không dám làm cách mạng đến cùng, nên cuộc đấu
tranh ở Ðức là một cuộc đấu tranh không triệt để.
2.2.
Cách mạng tháng ba ở Berlin
Sau khi Friedrich Wilhem III
chết (1840), giai cấp tư sản mong đợi một cuộc cải cách của
con ông là Wilhem IV, nhưng ông này mãi lo tổ chức các buổi hội hè,
du lịch... trong khi ngân khố trống rỗng. Vua phải tìm đến giai
cấp tư sản để vay tiền, các đại biểu tư sản chỉ chấp
nhận cho nhà vua vay với điều kiện phải thực hiện những yêu sách
của họ. Vua không đồng ý, liền giải tán Quốc hội, điều này
gây nên sự căm phẫn đối với nhân dân. Thêm vào đó, cuộc
khủng hoảng kinh tế 1847-1848 và nạn sâu khoai tây, mất mùa làm
cho nhân dân vô cùng khổ sở; bên cạnh đó họ còn bị thương nhân
bắt chẹt nên đã kéo vào các xưởng bánh mì để cướp lấy bánh;
họ không chỉ tấn công vào bọn thương nhân mà còn chỉa mũi
nhọn đấu tranh chống bọn phong kiến. Những cuộc đấu tranh
giữa nhân dân và cảnh sát đã báo hiệu một cuộc cách mạng
sẽ nổ ra.
Cuối tháng 2.1848 cách
mạng bắt đầu ở miền Nam Ðức: từ Basel, cách mạng lan sang các
vùng khác như: Bayer, Wuttemberg, Rhin... Cách mạng ở Pháp, Áo lan đến
Ðức càng thúc đẩy tinh thần đấu tranh của nhân dân Ðức.
Vào những ngày đầu tháng
3, ở Phổ và Bắc Ðức đã có những cuộc hội họp của công nhân,
thợ thủ công, sinh viên, tiểu tư sản... để thảo luận những
bản tin cách mạng từ Pháp, tây và nam Ðức. Ðồng thời họ cũng
gởi những đơn thỉnh nguyện với nhà vua đòi ân xá tù chính
trị, lập những cơ quan đại diện của nhân dân, lập bộ lao động...
Vilhem IV đã không giải quyết và dùng quân đội đàn áp cuộc
biểu tình, vì thế xung đột đã diễn ra giữa binh lính và nhân dân.
Thế là các lũy chướng ngại được dựng lên, cuộc chiến đấu
chống chính quyền diễn ra. Trong cuộc đấu tranh này, giai cấp công
nhân đã đứng ở hàng đầu. Cuộc đấu tranh kiên quyết của nhân
dân buộc nhà vua phải nhượng bộ, ra lệnh quân đội phải rút
khỏi Berlin và chấp nhận những yêu sách. Như vậy, cuộc chiến
đấu tháng 3.1848 của nhân dân ở Berlin đã thắng lợi; nhưng công
nhân Berlin cũng không có tổ chức hơn các đồng chí của họ ở
Paris hồi tháng 2, vì vậy giai cấp tư sản đã lợi dụng thắng
lợi của họ, quay trở lại bắt tay với nhà vua và quí tộc phong
kiến. Giai cấp tư sản đã thiết lập một chính quyền thỏa
hiệp. Chính quyền này vẫn giữ nguyên bộ máy cảnh sát và quân
đội cũ, các nhân viên nhà nước cũ vẫn giữ nguyên. Sau đó, nhà
vua đã tìm cách để thao túng chính quyền thỏa hiệp, củng cố
quyền hành của mình. Nước Ðức trở lại tình hình như hồi trước
cách mạng.
2.3.Vấn
đề thống nhất Ðức.
Cuộc đấu tranh cho tự
do và dân chủ ở Ðức thất bại, còn lại vấn đề thống nhất
dân tộc. Ðây cũng là yêu cầu cấp bách của giai cấp tư sản vì
nó cần một thị trường thống nhất toàn Ðức để phát triển
kinh tế. Vì thế, giai cấp tư sản Ðức cũng có tham vọng đấu
tranh cho việc thống nhất, nhưng họ chỉ tiến hành một cách dè
chừng, vì thế họ lại tiếp tục thất bại.
Ngày 15.5.1848, quốc hội
tòan Ðức họp ở Frankfurt trên sông Maine với mục đích thực
hiện việc thống nhất Ðức. Trong quốc hội, phần lớn đại
biểu là tư sản, trí thức, quân đội, không có đại biểu nào
của công nhân hoặc dân nghèo.
Sau một thời gian bàn cãi,
ngày 28.3.1849 quốc hội Frankfurt đã công bố một hiến pháp. Theo
hiến pháp này thì nước Ðức thống nhất tất cả các vương
quốc, thành lập một chính phủ liên bang, theo chế độ Quân chủ
lập hiến do hoàng đế đứng đầu. Các vương quốc trong liên
bang vẫn giữ chủ quyền riêng. Mọi đặc quyền của đẳng cấp
bị xóa bỏ. Quốc hội công bố những quyền tự do tư sản như
tự do ngôn luận, tự do báo chí, hội họp, nhưng những điều này
không có gì bảo đảm cả. Sau khi công bố hiến pháp, vấn đề là
đưa Phổ hay Áo đứng đầu nước Ðức. Cũng từ đó diễn ra
một cuộc đấu tranh của quần chúng nhân dân để bảo vệ và
ủng hộ hiến pháp. Các cuộc khởi nghĩa nổ ra vào tháng 5.1849,
bắt đầu ở Dresden rồi lan ra những nơi khác, nhưng tất cả đều
bị đàn áp. Phong trào đấu tranh bảo vệ hiến pháp thất bại,
quốc hội Frankfurt bị giải tán. Việc giải tán nghị viện đã
kết thúc cách mạng 1848 ở Ðức.
Cách mạng 1848 ở Ðức
thất bại là do sự phản bội của giai cấp tư sản tự do. Họ
lo sợ phong trào cách mạng của quần chúng nhân dân, vì vậy họ
đã thỏa hiệp với quí tộc phong kiến, điều này dẫn đến
việc lập lại chế độ phong kiến ở Ðức. Trong khi đó, giai
cấp vô sản ở Ðức còn non yếu, không đủ khả năng lãnh đạo
nhân dân chống bọn quí tộc phong kiến.
Cuộc Cách mạng và
thống nhất Ðức tuy thất bại, nhưng trong hai sự kiện này quần
chúng nhân dân đã đóng một vai trò đáng kể. Họ đã chứng tỏ
sức chiến đấu của mình trước những vấn đề lịch sử đề
ra và cuộc thống nhất Ðức tiếp tục hoàn thành trong những năm
70 của thế kỷ XIX.
3.
Cách mạng 48 ở Ý.
3.1.
Tình hình nước Ý trước cách mạng.
Trước cách mạng, Ý bị
chia thành 7 nước lớn nhỏ khác nhau. Trong số 7 vương quốc này,
có hai bộ phận chịu sự thống
trị trực tiếp của Áo, số còn lại chịu ảnh hưởng gián
tiếp của Áo. Ách áp bức nặng nề của phong kiến Áo và phong
kiến Ý cùng với sự chia cắt đất nước làm cho nền kinh tế Ý
phát triển chậm chạp. Tuy nhiên từ giữa thế kỷ XIX, nền kinh
tế Ý có những thay đổi nhất định, đặc biệt là ở bắc Ý.
Ở vùng Piémont, máy móc được sử dụng trong công nghiệp, nhiều
nhà máy luyện kim, cơ khí được xây dựng. Nông nghiệp cũng có
những phát triển đáng kể: một số quí tộc đã kinh doanh nông
nghiệp theo lối tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên sự tồn tại của
chế độ phong kiến và sự chia cắt đất nước là những trở
ngại lớn cho sự phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa ở Ý. Vì
vậy, vấn đề đặt ra cho Ý là giải phóng đất nước khỏi ách
thống trị của Áo và cả phong kiến Ý, xóa bỏ sự chia cắt đất
nước, thủ tiêu chế độ phong kiến, lập nên một quốc gia
thống nhất để phát triển chủ nghĩa tư bản
3.2.
Cách mạng bùng nổ.
Phong trào cách mạng ở
Ý bùng nổ vào những năm 40 của thế kỷ XIX. Tháng 1.1848, cách
mạng khởi đầu ở Lombardia và Vénésia. Tại đây, nhân dân đã
đấu tranh dưới hình thức tẩy chay thuốc lá của Áo, nhưng phong
trào bị nhà cầm quyền Áo phái quân đội đến đàn áp. Ở Nam
Ý, phong trào cách mạng cũng lan rộng: nhân dân ở Palermo đã đấu
tranh mạnh mẽ, cuộc đấu tranh buộc nhà vua ở Nam Ý phải nhượng
bộ và công bố một hiến pháp.
Những cuộc đấu tranh
ở Lombardia và ở Palermo đã ảnh hưởng đến các vương quốc khác,
đặc biệt là ở Piémont và khu Giáo hoàng. Từ những cuộc đấu
tranh riêng lẽ, phong trào phát triển thành một cao trào chống Aïo.
Lợi dụng phong trào cách mạng tư sản ở Áo, nhân dân Ý đứng lên
lật đổ sự thống trị của Áo. Ngày 18.3.1848, một cuộc khởi
nghĩa vũ trang bùng nổ ở Milano với khẩu hiệu người Áo cút
khỏi Ý. Nghĩa quân đã đuổi quân Áo ra khỏi thành phố, chính
quyền rơi vào tay chính phủ lâm thời gồm những người tư sản
tự do.
Phong trào đấu tranh
chống Áo mạnh nhất là ở vùng Nam Ý. Quần chúng ở Rome đã thành
lập nước Cộng Hòa Rome. Nông dân đã đem ruộng đất của địa
chủ ra chia, chiếm nhà của địa chủ, không nộp tô, thuế cho
phong kiến. Trước khí thế cách mạng của quần chúng nhân dân, tư
sản và quí tộc tự do lo sợ nên đã liên hệ với quí tộc phong
kiến. Kết quả là liên minh phong kiến đã phản công lại và thu
nhiều thắng lợi: ở Milano, Lombardia, Rome, Naples... chính quyền
thống trị của Áo lại được khôi phục.
Như vậy, cho đến giữa
năm 1849, Áo đã thu hồi lãnh thổ cũ của mình, đồng thời các lãnh
chúa phong kiến Ý cũng khôi phục sự thống trị của mình. Khắp
nơi trên đất nước Ý, quyền tự do dân chủ bị bãi bỏ, nhân dân
bị khủng bố.
Cách mạng ở Ý đã
thất bại. Sự thất bại của cách mạng là do thái độ thỏa
hiệp, lưng chừng của tư sản và quí tộc tư sản hóa, họ đã câu
kết với các thế lực phong kiến trong nước để đàn áp phong trào
cách mạng của quần chúng nhân dân. Thêm vào đó, thế lực phong
kiến Áo còn mạnh và câu kết với thế lực của Giáo hoàng ở
Ý để đàn áp cuộc đấu tranh của nhân dân.
IV. KẾT LUẬN CHUNG VỀ PHONG TRÀO CÁCH MẠNG 48-49 Ở CHÂU ÂU |
Cách mạng 1848-1849 bắt
đầu ở Pháp, và sau đó lan sang các nước châu Âu khác. Các
cuộc cách mạng này nhìn chung có nhiệm vụ thủ tiêu quan hệ
sản xuất phong kiến và mở đường cho chủ nghĩa tư bản phát
triển. Nhưng tùy điều kiện lịch sử của từng nước mà nhiệm
vụ cách mạng được thực hiện khác nhau: ở Pháp lật đổ sự
thống trị của tư sản tài chính. Ở Ðức thống nhất đất nước.
Ở Ý giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước.
Quần chúng nhân dân đóng
vai trò quan trọng trong quá trình phát triển của cách mạng, đặc
biệt trong các cuộc cách mạng này, có sự tham gia của giai cấp vô
sản. Lần đầu tiên công nhân ở Pháp đã đấu tranh với tư cách
là một giai cấp độc lập.
Cách mạng ở các nước
thất bại, phong trào tự do, dân chủ bị đàn áp. Nguyên nhân
chủ yếu là do sự phản bội của tư sản tự do. Tư sản tự do
đã lợi dụng lực lượng cách mạng của quần chúng để đấu
tranh đòi mở rộng quyền lợi cho mình, sau đó quay sang thỏa
hiệp với những thế lực phản động để chống lại nhân dân.
Sự do dự và dao động
của tiểu tư sản cũng đưa cách mạng đến thất bại: họ tỏ
ra lo ngại trước hoạt động của giai cấp công nhân, không có
những quyết định đúng đắn về chính sách ruộng đất.
Giai cấp vô sản châu Âu
chưa phải là một giai cấp lớn mạnh, chưa đủ lực lượng và
trình độ chính trị để tập họp chung quanh mình lực lượng cách
mạng; và họ chưa đủ khả năng để lãnh đạo cách mạng dân
chủ tư sản.
Ðồng minh Thần Thánh là một thế lực
phản động, đóng vai trò phản động trong việc đàn áp các phong
trào dân tộc, dân chủ ở châu Âu.
Tuy cách mạng thất bại,
nhưng nó đã có một ý nghĩa rất lớn đối với giai cấp vô
sản ở Châu Âu. Giai cấp vô sản châu Âu đã rút ra những bài
học kinh nghiệm quí báu qua các cuộc đấu tranh này.
?-
Nguyên nhân và nhiệm vụ của các cuộc CM 48-49 ở Ðức và Ý?