CHƯƠNG 5 : PHONG TRÀO CÔNG NHÂN CHÂU ÂU NỬA ÐẦU THẾ KỶ XIX - SỰ RA ÐỜI CỦA CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN KHOA HỌC
BÀI 9: SỰ RA ĐỜI CỦA CHỦ NGHĨA CÔNG SẢN KHOA HỌC
BÀI 10: QUỐC TẾ THỨ NHẤT (1864-1876)
Từ
khóa: tự phát, tự giác, lực lượng xã
hội độc lập, chủ nghĩa xã hội không tưởng, chủ nghĩa xã
hội khoa học.
Mục
đích: Chương này gồm các bài
8,
9,10 .
Trình bày sự phát triển
của phong trào công nhân từ khi mới ra đời đến việc thành
lập tổ chức Quốc tế đầu tiên của giai cấp công nhân. Thông
qua các bài, giáo viên giúp sinh viên hiểu rõ từng bước phát
triển của phong trào công nhân, đồng thòi giúp cho sinh viên thấy
vai trò của Mác- Ănghen trong việc sáng lập ra học thuyết CNXHKH,
cũng như vai trò và hoạt động của hai ông trong phong trào công nhân.
Yêu
cầu: Sinh viên cần nắm những nội
dung sau:
-Các phong trào tự phát
của công nhân trong buổi đầu.
-Ðặc điểm của phong trào
công nhân trong những năm 30-40 của thế kỉ XIX .
-Nội dung CNXH không tưởng.
-Nội dung và tư tưởng cơ
bản của Tuyên Ngôn của Ðảng Cộng sản.
- Hòan cảnh ra đời và
hoạt động của Quốc tế thứ nhất.
I. SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CHỦ NGHĨA TƯ BẢN GIỮA THẾ KỶ XIX |
Giữa thế kỷ XIX, nền
kinh tế tư bản chủ nghĩa có những bước tiến quan trọng. Thời
kỳ này cách mạng công nghiệp lan khắp châu Âu: Anh đã hòan thành
cách mạng công nghiệp. Pháp và Mỹ đang tiến hành.
1.
Nước Anh.
Anh đứng đầu trong nền
kinh tế thế giới. Anh hoàn thành cách mạng công nghiệp vào
những năm 1840. Cuối thế kỷ XIX, máy móc chiếm ưu thế trong
sản xuất; ngành dệt bông được cơ khí hóa rất sớm. Việc cơ
khí hóa sản xuất làm cho sản xuất công nghiệp tăng lên nhanh chóng.
Các ngành luyện kim và cơ khí phát triển mạnh nhằm trang bị kỹ
thuật toàn bộ cho công nghiệp.
Năm 1810, sản lượng gang
của Anh là 225.000 tấn, năm 1850 con số đó là 2.250.000 tấn. Hệ
thống đường sắt phát triển mạnh: từ 2.000km tăng lên 10.000km
trong thời gian từ 1840 đến 1850. Sự phát triển của đường
sắt thúc đẩy sự phát triển của thị trường trong nước và tăng
cường sự liên hệ giữa các trung tâm công nghiệp.
Ngành hàng hải cũng có
những biến đổi quan trọng nhờ việc ứng dụng máy hơi nước:
nhiều công ty hàng hải lớn được thành lập. Sự phát triển
của giao thông vận tải ảnh hưởng đến ngoại thương: số lượng
hàng xuất khẩu ngày càng nhiều.
Sự phát triển công
nghiệp cũng ảnh hưởng lớn đến nông nghiệp. Máy móc và phương
pháp canh tác mới được sử dụng trong nông thôn, do đó năng
suất nông nghiệp tăng cao. Anh là một nước có trình độ nông
nghiệp tiên tiến thời bấy giờ.
Tóm lại, cách mạng công
nghiệp đã hoàn toàn thay đổi bộ mặt của nước Anh, đưa Anh lên
địa vị hàng đầu của thế giới.
2.
Nước Pháp.
Pháp có nền kinh tế kém
phát triển hơn Anh, nhưng mạnh hơn so với các nước Châu Âu lúc
bấy giờ.
Cách mạng công nghiệp đang
trên đà phát triển, hoàn thành vào những năm 60. Việc sử dụng
máy móc ngày càng rộng rãi trong các ngành công nghiệp nhẹ và
nặng.
Năm 1830: Pháp có 616 máy
hơi nước.
Năm 1847: tăng lên 4.853 cái.
Sản lượng công nghiệp
các ngành cũng tăng lên rõ rệt. Công nghiệp dệt, đặc biệt là
dệt bông phát triển khá nhanh, sản lượng tăng gấp đôi từ
1816-1830. Năm 1832, Pháp sản xuất 225.000 tấn gang và 148.000 tấn
sắt.
Năm 1846, số gang tăng lên
586.000 tấn và sắt tăng 373.000 tấn.
Trong nền kinh tế Pháp,
hệ thống tín dụng phát triển khá mạnh, đây là một đặc điểm
quan trọng trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa ở Pháp.
Tuy có những bước phát
triển đáng kể, nhưng nhìn chung, tốc độ phát triển của công
nghiệp còn chậm chạp, qui mô nhỏ bé vì sự tồn tại của chế
độ tiểu nông làm cho thị trường trong nước bị thu hẹp,
nguồn công nhân hạn chế, nguyên liệu ít ỏi. Sự thống trị
của Louis Philippe cũng là một trở ngại vì tư sản tài chính
chỉ làm giàu bằng con đường cho vay chứ
không phát triển sản xuất.
3.
Nước Ðức.
Kinh tế Ðức tuy phát
triển kém hơn Anh, Pháp, nhưng vượt xa các nước Châu Âu nửa
phong kiến lúc bấy giờ.
Quan hệ tư bản chủ nghĩa
phát triển mạnh ở vùng sông Rhin, Westphalie. Berlin trở thành trung
tâm công thương nghiệp của Ðức, tập trung 1/3 sản xuất cơ khí
và vải của cả nước. Trong công nghiệp Ðức, công trường thủ
công là hình thức sản xuất phổ biến. Cách mạng công nghiệp
ở Ðức bắt đầu vào năm 40 của thế kỷ XIX. Năm 1822 cả nước
Ðức chỉ có vài máy hơi nước. Năm 1837, riêng Phổ có trên 300 máy
hơi nước. Công nghiệp dệt và khai khoáng phát triển mạnh. Nền
sản xuất tư bản đạt nhiều thành tựu đáng kể,
ngày càng tỏ ra mâu thuẫn với chế độ phong kiến.
Như vậy, trong khoảng
từ 1815-1848 cách mạng công nghiệp tiếp tục phát triển ở các nước,
thúc đẩy nền kinh tế ở các nước này phát triển lên một bước.
Ở các nước chưa tiến hành cách mạng tư sản, nền kinh tế tư
bản chủ nghĩa cũng có những bước phát triển đáng kể. Nó đã
tạo ra một nguồn của cải vật chất phong phú cho chủ nghĩa tư
bản. Sự phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa cũng ảnh hưởng
đến sự phát triển xã hội. Bên cạnh mâu thuẫn giữa chủ nghĩa
tư bản và chế độ phong kiến, xuất hiện mâu thuẫn giữa giai
cấp tư sản và giai cấp vô sản. Ðây là một trong những vấn đề
trung tâm của tình hình xã hội các nước thời bấy giờ.
II. PHONG TRÀO CÔNG NHÂN |
1.
Những cuộc đấu tranh tự phát đầu tiên cho đến năm 1830.
1.1.
Ở Anh.
Phong trào đấu tranh của
giai cấp công nhân Anh nảy sinh sớm nhất vào năm 60 của thế kỷ
XVIII (1760). Ngay trong những cuộc đấu tranh đầu tiên hiện tượng
đập phá máy móc xuất hiện. Phong trào phát triển mạnh nhất vào
năm 1807, 1808, 1811, 1812 với một cao trào gọi là Ludded. Cao trào này
phản đối việc sử dụng máy dệt bằng hơi nước, nhưng bị chính
quyền ra sắc lệnh xử tử những người đập phá máy móc.
Sau năm 1815, do khuynh hướng
phản động của chính quyền nên những cuộc đình công đòi phổ
thông đầu phiếu và cải thiện đời sống lại bùng lên sôi
nổi và trở nên quyết liệt vào 1819. Phong trào đập phá máy móc
lại nổ ra mạnh hơn trước: năm 1822, 1823 công nhân lại
nổi dậy đập phá máy móc, thiêu hủy những trang viên của địa
chủ, đốt nhà người giàu, những cơ quan của chính quyền.
1.2.
Ở Pháp:
Phong trào công nhân Pháp phát triển muộn
hơn ở Anh, bắt đầu nảy sinh từ những năm đầu thế kỷ XIX,
bằng việc lập những hội tương tế, nhưng những hội này ngày
càng thiếu tính chất giai cấp. Phong trào đập phá máy móc nổ ra
và phát triển mạnh ở Pháp vào những năm 20 của thế kỷ XIX.
1.3. Ở Ðức:
Phong
trào công nhân Ðức phát triển muộn hơn ở Anh và Pháp. Nó diễn
ra vào những năm 30 của thế kỷ XIX ở hai vùng công nghiệp quan
trọng là Rhin và Saxe, giai cấp vô sản Ðức đấu tranh đòi cấm
sử dụng máy móc, họ còn đập phá xí nghiệp.
Thông qua những phong trào
này, giai cấp vô sản ở các nước được tôi luyện và thu được
những kinh nghiệm đấu tranh, thúc đẩy họ ngày càng trưởng thành,
đưa phong trào phát triển lên một bước.
2.
Phong trào công nhân trong những năm 30- 40 của thế kỷ XIX
Từ những năm 30 trở đi,
ý thức chính trị của giai cấp công nhân tuy còn mơ hồ nhưng đã
tiến bộ hơn trước, hiện tượng đập phá máy móc không còn
nữa. Những yêu sách về kinh tế, chính trị bắt đầu được
đưa ra trong các cuộc đấu tranh như những mục tiêu chiến đấu
chủ yếu của giai cấp vô sản. Họ đã bước lên vũ đài chính
trị với tư cách một lực lượng xã hội độc lập.
2.1.
Ở Pháp:
Khởi nghĩa của thợ tơ Lyon năm1831 và
1834 là cuộc khởi nghĩa lớn của công nhân Pháp thời
kỳ này. Công nhân ở Lyon đã đứng lên biểu tình để
phản đối việc chủ không chịu tăng lương. Chính quyền phái
quân đội đến đàn áp, nhưng họ vẫn kiên quyết đấu tranh
với khẩu hiệu Sống trong lao động hay chết trong chiến đấu.
Sau 3 ngày đấu tranh, công nhân đã đuổi được quân chính phủ là
làm chủ thành phố, nhưng bọn tiểu chủ đã ngăn cản việc tổ
chức chính quyền của giai cấp công nhân, vì thế quân đội được
phái từ Paris về đàn áp phong trào.
Cũng
tại Lyon, năm 1834 đã nổ ra
một cuột
khởi nghĩa khác, công nhân phản
kháng đạo luật cấm
lập nhóm một cánh khắt khe
(ngay cả những tổ chức dưới 20
người cũng bị
cấm .) Nghiã quân đã ra một bản tuyên bố trong đó có câu:
Mục đích chiến đấu của chúng tôi cũng là của toàn thể nhân
loại, là hạnh phúc của chúng tôi, là một tương lai có bảo đảm.
Những khẩu hiệu mà giai cấp công nhân nêu ra trong quá trình
khởi nghĩa đã mang tính chất chính trị rõ ràng: họ đòi thiết
lập chế độ cộng hòa, nhưng lần này chính phủ đã chuẩn bị
chu đáo nên khởi nghĩa của công nhân bị quân đội đàn áp sau
bốn ngày chiến đấu anh dũng.
Các cuộc khởi nghĩa này
đánh dấu sự lớn mạnh của phong trào công nhân Pháp: lần đầu
tiên họ bước lên vũ đài chính trị với tư thế là một lực lượng
chính trị độc lập.
2.2.
Ở Anh:
Phong trào đấu tranh của
công nhân Anh thể hiện ở phong trào Hiến chương. Giai cấp vô
sản Anh ủng hộ giai cấp tư sản trong cải cách tuyển cử 1832,
nhưng kết quả là họ không được chút quyền chính trị
gì. Vì thế, yêu cầu của công nhân là đòi quyền chính
trị ở nghị viện.
+ Lãnh đạo phong trào là
một tổ chức mang tên Hội công nhân Luân đôn thành lập năm 1836
do Lowett đứng đầu. Hội đã thảo ra một yêu sách gồm sáu điểm
trình lên nghị viện:
- Thực hiện phổ thông
đầu phiếu đối với nam giới từ 21 tuổi trở lên.
- Phân chia khu vực tuyển
cử.
- Xóa bỏ mọi hình thức
thuế với điều kiện nghị viện.
- Trả lương cho nghị viên
- Tuyển cử hàng năm vào
Quốc Hội.
- Bỏ phiếu kín.
Ðây là một cương lĩnh
mang tính dân chủ của công nhân, nó trở thành cương lĩnh hành động
của phong trào.
+ Diễn biến: phong trào
trải qua ba cao trào với ba cuộc biểu tình ủng hộ cho các bản
kiến nghị:
- Cao trào lần I: diễn ra
năm 1839, thu được trên 1 triệu chữ ký của công nhân.
- Cao trào lần II: diễn
ra năm 1842, thu trên 3 triệu chữ ký.
- Cao trào lần III: diễn
ra năm 1848 với trên 5 triệu chữ ký.
+ Nguyên nhân thất bại:
do tư tưởng hòa bình của Lowett, họ chủ trưởng thỏa hiệp
với giai cấp tư sản, cho rằng bất
đắc dĩ mới dùng đến biện pháp cách mạng, vì vậy họ không dám
phát động phong trào đấu tranh của quần chúng để chống đối
giai cấp tư sản khi chúng từ chối không chấp nhận các yêu cầu của công nhân.
+ Phong trào tuy thất bại
nhưng có một ý nghĩa lịch sử rất lớn, nó là một phong trào
mang tính chất quần chúng rộng rãi với một qui mô đấu tranh
lớn.
2.3.
Ở Ðức:
Khởi nghĩa của công nhân
Ðức nổ ra vào 1844 ở Silésie. Công nhân đòi tăng lương, phá
hủy nhà cửa của tư sản. Chính quyền địa phương cho quân đến
đàn áp cuộc khởi nghĩa. Trong cuộc đàn áp này có nhiều chết và
bị thương.
Marx đánh giá cao cuộc
khởi nghĩa của những người thợ dệt Silésie, xem đó là một
hiện tượng có ý nghĩa chính trị lớn lao, mở đầu cho phong trào
công nhân có tính chất quần chúng, chứ không phải là "một
cuộc khởi nghĩa vì đói" như tư sản cố tình xuyên tạc.
Các phong trào công nhân
trong những năm 30-40 của thế kỷ XIX ở Anh, Pháp, Ðức có những
đặc điểm chung:
+ Những khẩu hiệu chính
trị đã được nêu lên bên cạnh những khẩu hiệu về kinh tế.
+ Phong trào mang tính
chất quần chúng rộng rãi.
+ Qui mô đấu tranh ngày càng
lớn.
Những đặc điểm này
chứng tỏ rằng giai cấp vô sản ở các nước đã trở thành
một lực lượng chính trị độc lập. Tuy nhiên, sự thất bại
của phong trào đã chứng tỏ rằng giai cấp vô sản chưa được
giác ngộ đầy đủ; tổ chức chưa chặt chẽ, không được hướng
dẫn bằng một lý luận cách mạng khoa học.
?-
Những điều gì chứng tỏ trong những năm 30-40 của thế kỉ XIX
giai cấp
vô sản châu Âu đã trở hành một lực lượng xã hội độc
lập ?
III. CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHÔNG TƯỞNG |
1.
Hoàn cảnh ra đời.
Vào những năm đầu thế
kỷ XIX, khi chủ nghĩa tư bản được xác lập thì giai cấp công
nhân tiếp tục sống một cuộc sống khổ sở do sự bóc lột
của giai cấp tư sản. Tình hình này làm cho nhiều nhà tư tưởng
tiến bộ xúc động: xã hội mà họ nhìn thấy là một xã hội
lừa đảo, bóc lột... không đem lại hạnh phúc, bình đẳng như cương
lĩnh mà giai cấp tư sản đề ra trong các cuộc cách mạng tư
sản. Do đó, một số nhà tư tưởng tiến bộ đã xây dựng
những lí thuyết về một xã hội mới, trong đó không có bất công
và nghèo nàn...Chế độ xã hội mà họ đề ra đó là chủ nghĩa
xã hội không tưởng.
2.
Nội dung.
Các nhà xã hội học không
tưởng đã nghiêm khắc lên án chế độ tư bản chủ nghĩa, vạch
ra tính chất phản động của giai cấp tư sản và những bất công
trong xã hội. Họ đã nêu lên những quan điểm về một xã hội
mới và kế hoạch để xây dựng xã hội ấy nhưng đó chỉ là
những dự án không thể thực hiện được vì họ không hiểu rõ
bảïn chất của qui luật xã hội. Việc làm của họ mang tính
chất không tưởng.
3.
Các đại biểu tiêu biểu.
3
1. Saint Simon (1760 - 1825)
Xuất thân trong một gia
đình quí tộc, đã tham gia cuộc đấu tranh giành độc lập ở
Bắc Mỹ. Quan điểm của Saint Simon được trình bày trong tác
phẩm Những bức thư từ Genève" và một số tác phẩm khác.
Theo ông, lịch sử loài người là một sự tiến hóa không ngừng,
chế độ sau tiến bộ hơn chế độ trước, nhưng động lực
của sự phát triển là ý thức của con người. Ông công kích
kịch liệt chủ nghĩa tư bản; kêu gọi mọi người hướng về
một tương lai tốt đẹp, thủ tiêu chế độ ăn bám và xã hội
được cải tạo theo hướng xã hội chủ nghĩa. Ông chủ trương xây
dựng một xã hội mới trong đó mọi người phải lao động trên
cơ sở của nền sản xuất lớn, được quyền hưởng thụ bình
đẳng, nền kinh tế được kế hoạch hóa. Bất cứ ở đâu và lúc
nào, ông cũng hết lòng quan tâm đến số phận của giai cấp vô
sản. Tuy nhiên, ông không thấy được mâu thuẫn giữa tư sản và
vô sản là mâu thuẫn đối kháng, ông không tán thành những biện
pháp đấu tranh cách mạng mà chỉ chủ trương thuyết phục và giáo
dục những người có của để họ giúp ông thực hiện kế
hoạch của mình nhưng giai cấp tư sản không đoái hoài đến
những dự thảo kế hoạch mà ông gửi đến.
3.2.
Charles Phourrier
(1772 - 1837).
Ông xuất thân từ một
gia đình thương nhân, khi còn nhỏ ông đã phải giúp việc bán hàng
và sớm nhận thấy những mánh khóe xảo quyệt của giai cấp tư
sản.
Fourrier đã lên án những
thương nhân dùng các thủ đoạn gian xảo để đầu cơ trục
lợi. Ông đả kích sự cạnh tranh và sản xuất không kế hoạch,
vô tổ chức của chủ nghĩa tư bản. Ông chỉ ra rằng trong xã
hội tư sản, sự thừa thãi ở cực này là do sự nghèo đói ở
cực kia.
Ông dự định xây dựng
một xã hội mới dựa trên cơ sở những Phalange. Trong mỗi
Phalange có nhiều ngành sản xuất kết hợp chặt chẽ giữa nông
nghiệp và công nghiệp. Trong các Phalange, lao động sẽ là niềm
vui, phụ nữ được bình đẳng với nam giới, trẻ em được giáo
dục tập thể, có khả năng lao động chân tay và trí óc... Của
cải trong Phalange sẽ chia theo lao động và tài năng. Cũng như Saint
Simon, Fourrier không chủ trương đấu tranh giai cấp, chỉ hy voûng
bọn nhà giàu được tuyên truyền, thuyết phục thì sẽ thực
hiện kế hoạch của ông, tất nhiên là không ai đáp lại lòng
mong đợi của ông.
3.3.
Robert Owen (1771-1858).
Ông là con của một người
thợ thủ công. Năm 16 tuổi, ông làm việc trong một cửa hiệu
London, sau làm quản lý một xưởng trên 2.000 công nhân.
Ông đã thí nghiệm xây
dựng một xã hội mới trong xưởng riêng của mình ở Scotland
bằng những biện pháp như: hạn chế ngày lao động, thủ tiêu
chế độ phạt tiền, đặt ra chế độ tiền thưởng, xây dựng
nhà trẻ cho con em công nhân.
Ông chủ trương xây
dựng công xã trong đó tài sản là của chung, xóa bỏ sự nghèo
khổ, lao động trở thành nghĩa vụ và hạnh phúc của mọi người.
Ðiều làm cho Owen trở nên
vĩ đại là ông đã phát hiện ra những ung nhọt của xã hội tư
sản, ở lòng thương xót sâu sắc của ông đối với những đau
khổ của nhân dân. Ông tự đặt cho mình nhiệm vụ giải phóng loài
người ra khỏi những đau khổ của họ, nhưng ông cũng vấp phải
những nhược điểm là phản đối việc sử dụng bạo lực cách
mạng và không dựa vào lực lượng của giai cấp công nhân....
Những nhà xã hội chủ
nghĩa không tưởng là những con người vĩ đại. Họ phê phán
sắc sảo, vạch ra bản chất của chủ nghĩa tư bản, đả kích
tận gốc xã hội; lúc nào họ cũng nghiêng về những người nghèo
khổ. Họ có một dự đoán thiên tài về xã hội tương lai, nhưng
họ không thấy ở giai cấp vô sản một sức mạnh cải tạo xã
hội, chỉ chủ trương cải cách bằng du nhập dần chủ nghĩa xã
hội vào chủ nghĩa tư bản; đó là mặt hạn chế của họ.
?-
Nội dung của CNXHKT ? - Những
ưu điểm và hạn chế của CNXHKT?
Bài
9:
SỰ
RA ÐỜI CỦA CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN KHOA HỌC |
I. HOÀN CẢNH RA ÐỜI CỦA CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN KHOA HỌC |
1.
Nhìn lại sự phát triển của chủ nghĩa tư bản và phong trào công
nhân đến những năm 40 của thế kỷ XIX.
1.1.
Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản:
Từ những năm 30 của
thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản đã được xác lập ở các nước
Tây Âu và Bắc Mỹ. Lực lượng sản xuất TBCN phát triển ngày càng
mạnh và đạt đến một trình độ khá cao. Cách mạng công
nghiệp đang tiến hành ở một số nước, có nơi đã hoàn thành
như ở Anh. Nhìn chung, đến khoảng giữa thế kỷ XIX, sự phát
triển của nền công nghiệp lớn TBCN là một nét nổi bật trong tình
hình kinh tế của các nước châu Âu.
Sự phát triển của chủ
nghĩa tư bản đã làm cho tình hình xã hội biến đổi sâu sắc:
ở những nước đã làm cách mạng tư sản như Anh, Pháp; chủ nghĩa
tư bản thâm nhập vào mọi mặt của đời sống xã hội; nông dân
sản xuất nhỏ bị phá sản, thợ thủ công bị đe dọa. Những công
xưởng lớn xuất hiện đưa đến tình trạng tập trung công nhân,
dân số thành thị tăng lên nhanh chóng. Sự phát triển của giao thông
dẫn đến sự nối liền các trung tâm công nghiệp, xóa bỏ sự ngăn
cách giữa các vùng với nhau. Tuy nhiên, khi chủ nghĩa tư bản càng
phát triển thì sự tương phản giữa cái giàu và cái nghèo rõ
rệt: sự bóc lột của giai cấp tư sản đã đưa tình cảnh của
giai cấp công nhân ở các nước đến chỗ thật là bi đát. Ðối
với một số nước chưa hoàn thành cách mạng tư sản,nghĩa là còn
ở tình trạng nửa phong kiến, giai cấp tư sản mong muốn phát
triển, ý thức dân tộc nảy nở, phong trào dân tộc dân chủ bát
đầu xuất hiện.
1.2.
Phong trào công nhân.
Sự phát triển của chủ
nghĩa tư bản đã gây ra cho giai cấp vô sản những nỗi đau khổ
ghê gớm và giai cấp công nhân đã dũng cảm đứng lên để tự
giải phóng. Những hình thức phản kháng đầu tiên là phong trào
đập phá máy móc của công nhân, nhưng đó chỉ là một phong trào
tự phát, những hoạt động như vậy không thể đưa những người
lao động đến thắng lợi được. Qua quá trình đấu tranh, giai
cấp công nhân dần dần có ý thức và tổ chức hơn, họ tiến hành
những cuộc đấu tranh có qui mô lớn hơn, chống lại toàn bộ
giai cấp tư sản; đòi hỏi không những quyền lợi về kinh tế mà
cả những quyền lợi về chính trị nữa. Những cuộc đấu tranh
ở Lyon 1831-1834, ở Anh từ 1836-1848, ở Ðức 1848 đã phản ánh tình
hình trên; nó đánh dấu thời kỳ đấu tranh độc lập của giai
cấp công nhân. Tuy nhiên, cuối cùng, các phong trào đều thất
baị, qua đó bộc lộ những nhược điểm: chưa có một đường
lối đấu tranh khoa học và chính xác, chưa có một tổ chức lãnh
đạo của giai cấp công nhân. Chủ nghĩa xã hội không tưởng càng
bộc lộ những nhược điểm của nó, là một trở ngại đối
với việc giải quyết những vấn đề cấp thiết của giai cấp công
nhân. Cuộc đấu tranh cách mạng buộc giai cấp vô sản phải đề
ra nhiệm vụ sáng tạo một học thuyết đúng đắn để đưa phong
trào đi đến thắng lợi, do đó, yêu cầu xác lập một cương lĩnh
đấu tranh cho giai cấp công nhân là một yêu cầu cấp thiết của
lịch sử.
?-
Hòan cảnh ra đời của chủ nghĩa cộng sản khoa học?
II. HOẠT ÐỘNG CỦA MARX VÀ ENGELS |
1.
Xây dựng lý luận.
Marx-Engels là những người
thầy vĩ đại của giai cấp vô sản, là những người đầu tiên
đã sáng lập ra học thuyết cách mạng cho giai cấp vô sản.
Quá trình ra đời và phát
triển của học thuyết Marx chính là quá trình đấu tranh không
ngừng chống những quan điểm duy tâm và siêu hình, thể hiện
trong những tác phẩm Marx -Engels cùng viết từ năm 1844 đến năm
1848. Trên cơ sở kế thừa có phê phán các thành tựu của khoa
học và những trào lưu tư tưởng
thế kỉ XIX, Marx và Engels đã xây dựng cho giai cấp công nhân
một học thuyết cách mạng. Ðó là chủ nghĩa cộng sản KH.
2.
Ðấu tranh tuyên truyền và xây dựng tổ chức trong phong trào công
nhân.
Ðể tạo điều kiện tuyên
truyền chủ nghĩa cộng sản vào phong trào công nhân và đặt sợi
dây liên lạc giữa những nhà hoạt động xã hội chủ nghĩa, Marx
và Engels đã thành lập Ủy ban thông tấn cộng sản 1845 ở
Bruxelles. Ủy ban này thiết lập và duy trì quan hệ với những người
xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa ở Ðức, quan hệ với
những người chủ nghĩa cộng sản Pháp. Tháng 6-1847, Ðồng minh
những người cộng sản được thành lập trên cơ sở cải tổ Ðồng
minh những người chính nghĩa. Ðại hội thứ II của Ðồng minh
những người cộng sản họp ở London vào mùa thu 1847 đã thông
qua điều lệ về tổ chức và tiến hành xây dựng cương lĩnh.
Marx và Engels được ủy nhiệm soạn thảo bản cương lĩnh của Ðồng
minh. Tháng 2-1848, Tuyên ngôn được ra mắt lần đầu tiên ở Luân
đôn bằng tiếng Ðức.
III. TUYÊN NGÔN CỦA ÐẢNG CỘNG SẢN |
Tuyên ngôn Ðảng Cộng
Sản là văn kiện cương lĩnh đầu tiên của chủ nghĩa cộng sản
khoa học. Trong Tuyên ngôn, Marx-Engels trình bày một cách súc tích và
có hệ thống những nguyên lý lý luận của mình về triết học,
kinh tế chính trị, chủ nghĩa xã hội khoa học. Trái với những
lời lẽ giả dối và vu khống chủ nghĩa cộng sản, trái với
những điều bịa đặt về chủ nghĩa cộng sản, Marx - Engels đã
công khai và dũng cảm tuyên bố cho thế giới biết sự thật về
nhiệm vụ lịch sử của giai cấp công nhân.
Tuyên
ngôn có một lời mở đầu và 4 chương.
Lời mở đầu gồm: lý
do ra đời và mục đích của tuyên ngôn.
Chương I: Tư sản và vô
sản
Trình bày một cách khái
quát qui luật phát triển của chủ nghĩa tư bản, nêu lên sự đối
lập giữa tư sản và vô sản, nêu lên vai trò lịch sử của giai
cấp vô sản.
- Marx-Engels vạch ra qui
luật phát triển của xã hội loài người sau khi chế độ cộng
sản nguyên thủy tan rã là lịch sử phát triển của sản xuất và
lịch sử của đấu tranh giai cấp.
- Tiếp đó, Marx-Engels nêu
lên giai cấp tư sản là sản phẩm của một quá trình phát triển
lâu dài, nêu rõ vai trò của giai cấp tư sản trong lịch sử, đồng
thời vạch rõ những mặt tiêu cực của họ. Giai cấp tư sản ra
đời, tạo nên những lực lượng sản xuất phát triển mạnh, nhưng
chính sự phát triển mạnh của sức sản xuất sẽ trở thành
một yếu tố đưa giai cấp tư sản đi dần đến chỗ diệt vong.
- Marx -Engels cũng chứng
minh rằng khi nền công nghiệp tư bản chủ nghĩa phát triển thì
giai cấp vô sản cũng trưởng thành, lớn lên về mặt chính trị,
nhận thức được sức mạnh giai cấp và họ sẽ đứng lên đảm
đương vai trò lịch sử của mình. Khi cuộc đấu tranh giai cấp phát
triển, cuối cùng sẽ dẫn đến cuộc nội chiến tiềm tàng,
ngấm ngầm trong lòng xã hội tư bản, cho đến lúc nội chiến
ấy bùng nổ thành ra cách mạng công khai", và sẽ đến lúc
giai cấp vô sản xây dựng sự thống trị của mình bằng cách dùng
bạo lực, lật đổ giai cấp tư sản. Hai ông đã kết luận rằng
giai cấp tư sản tạo ra người đào huyệt chôn ngay chính nó, sự
sụp đổ của giai cấp tư sản và thắng lợi của giai cấp vô
sản đều là tất yếu.
Chương II: Những người
vô sản và những người Cộng sản
Marx-Engels nêu lên mối
quan hệ khăng khít giữa giai cấp vô sản và đội tiên phong của
nó, tức là Ðảng của giai cấp vô sản. Hai ông vạch rõ rằng
muốn hoàn thành sứ mệnh lịch sử chôn vùi giai cấp tư sản và
xây dựng xã hội mới, giai cấp vô sản phải có chính Ðảng
của mình, phải thiết lập chuyên chính vô sản và tiến hành
những biện pháp cách mạng.
- Marx- Engels cho rằng
những người cộng sản là bộ phận tiên tiến nhất, kiên quyết
nhất của giai cấp vô sản; họ được giác ngộ về quyền lợi
giai cấp, được vũ trang bằng lí luận cách mạng, hiểu rõ
những điều kiện và bước tiến cũng như những kết quả của
phong trào cách mạng.
- Marx- Engels chỉ ra đường
lối, biện pháp đấu tranh cho giai cấp công nhân để khẳng định
sự thống trị của mình và thực hiện sứ mệnh lịch sử của
giai cấp: xây dựng chủ nghĩa xã hội và cộng sản chủ nghĩa:
Muốn giành được chính quyền và sử dụng chính quyền đó vào
mục đích của giai cấp vô sản, phải dùng bạo lực cách mạng,
xâm phạm một cách chuyên chế vào quyền sở hữu và chế độ
sản xuất tư sản.
Chương III: Văn học xã
hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.
Marx- Engels nêu lên những
học thuyết xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa ra đời trước
và cùng lúc với chủ nghĩa cộng sản khoa học. (Chủ nghĩa xã
hội phong kiến, chủ nghĩa xã hội tư sản, chủ nghĩa xã hội
bảo thủ....) Marx- Engels vạch rõ tính giai cấp của những trào lưu
tư tưởng phi vô sản, tác hại của những trào lưu đó. Ðặc
biệt, Marx- Engels đánh giá một cách đúng đắn chủ nghĩa xã
hội không tưởng vì nó dám phê phán một cách sâu sắc xã hội tư
bản, đồng thời nêu lên tính chất không tưởng của nó và chỉ
ra rằng khi chủ nghĩa tư bản đã phát triển cao mà
còn giữ lấy chủ nghĩa xã hội không tưởng là sẽ kìm hãm
phong trào công nhân.
Chương IV: Lập trường
của những người cộng sản đối với các Ðảng đối lập.
Marx Engels đề ra những
nguyên lý cơ bản về sách lược của Ðảng cộng sản trong cuộc
đấu tranh cho dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
- Những người cộng
sản phải ủng hộ mọi phong trào cách mạng chống lại những
trật tự xã hội và chính trị hiện có. Cuộc đấu tranh giai
cấp vô sản có thắng lợi hay không là ở chỗ nó có đoàn kết
được chung quanh mình quần chúng nhân dân bị bóc lột hay không.
Ðảng cộng sản phải giáo dục cho giai cấp vô sản nhận thức
đầy đủ mục đích cuối cùng của mình là đấu tranh cho chủ
nghĩa cộng sản, phải bảo đảm tính chất độc lập về chính
trị và tổ chức của mình để lãnh đạo cách mạng đến thắng
lợi.
Bản Tuyên Ngôn kết thúc
bằng khẩu hiệu chiến đấu Vô sản tất cả các nước liên
hợp lại
Sự ra đời của CNCSKH
đánh dấu một bước ngoặt trong phong trào công nhân. Việc
truyền bá chủ nghĩa CSKH trong hàng ngũ giai cấp công nhân đã đem
lại một nhân tố tự giác cho phong trào công nhân, nâng phong trào
lên một trình độ cao hơn và tạo nên một sức mạnh chưa
từng có cho giai cấp công nhân.
?-
Những luận điểm cơ bản trong TNÐCS?
?-
Ý nghĩa lịch sử của TNÐCS?
Bài
10:
QUỐC TẾ THỨ NHẤT (1864 - 1876) |
I. HOÀN CẢNH RA ÐỜI VÀ VIỆC THÀNH LẬP |
1.
Hoàn cảnh ra đời.
1.1. Ðến những năm 50,
60 của thế kỷ thứ XIX, về cơ bản chủ nghĩa tư bản đã được
xác lập ở các nước châu Âu. Lúc bấy giờ, Anh vẫn là nước
đứng đầu thế giới, là công xưởng thế giới. Các nước khác
như Pháp, Ðức, Ý... cũng có một nền kinh tế phát triển đáng
kể . Sự phát triển của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa và
những thành tựu của khoa học, kỹ thuật cuối thế kỷ XIX đánh
dấu một biến tiến vĩ đại ở các nước châu Âu: việc thông
tin liên lạc được cải tiến, sự hiểu biết lẫn nhau và các
tin tức ở các nước làm cho sự giao tiếp của giai cấp công nhân
càng ngày càng gần gũi.
Sự phát triển của chủ
nghĩa tư bản dẫn đến sự thay đổi về quan hệ xã hội: ở
những nước tư bản phát triển, giai cấp tư sản đã chiếm vị
trí thống trị, ở những nơi còn có sự thỏa hiệp của bọn tư
sản và quí tộc; thì bọn này cũng đã tư sản hóa rất nhiều. Lúc
bấy giờ, giai cấp vô sản cũng ngày càng lớn mạnh. Sự thất
bại của họ trong những năm 48-49 càng làm cho sự mâu thuẫn vốn
có giữa họ và giai cấp tư sản ngày càng sâu sắc hơn. Vì thế,
chỉ sau một thời gian lắng dịu, phong trào công nhân châu Âu
phục hồi nhanh chóng.
1.2. Với sự phát triển
của chủ nghĩa tư bản và sự ra đời ngày càng nhiều các xí
nghiệp công nghiệp, giai cấp vô sản ngày một đông đảo và
tập trung trong các nhà máy lớn: cơ cấu và chất lượng của giai
cấp công nhân thay đổi rõ rệt. Số công nhân trong các xí
nghiệp nhỏ giảm đi và tập trung trong các nhà máy lớn, trình độ
giác ngộ và tính chất quần chúng của họ được nâng cao.
Những cuộc khủng hoảng
kinh tế chu kỳ từ những năm 1847-1857-1867
làm cho tình trạng của họ càng khốn đốn: luôn luôn bị
nạn thất nghiệp đe dọa, điều kiện sinh hoạt và làm
việc không bảo đảm...Vì thế, trong thời gian này những cuộc đấu
tranh của giai cấp công nhân liên tiếp diễn ra bằng những cuộc
biểu tình, bãi công... chống chế độ làm thuê và những chính sách
đối ngoại phản động của chính phủ tư sản. Tuy nhiên, trong
thời kỳ này, các luồng tư tưởng phi vô sản vẫn ảnh hưởng
ít nhiều trong phong trào công nhân, làm cho các tổ chức công nhân
mang tính chất bè phái. Sự lớn mạnh của phong trào công nhân đòi
hỏi phải thanh toán nạn bè phái, thống nhất tổ chức của giai
cấp vô sản trên cơ sở chủ nghĩa cộng sản khoa học, đó cũng
là yêu cầu thành lập tổ chức Quốc tế của giai cấp công nhân.
1.3. Trong những năm cách
mạng sôi sục ở Châu Âu, Marx Engels đã tham gia và hướng dẫn
phong trào công nhân chiến đấu chống lại mọi biểu hiện của
những tư tưởng phi vô sản. Ðó là những năm Marx Engels phải
vất vả và kiên trì đấu tranh chống những hoạt động phản động
của chính phủ tư sản. Marx-Engels cho xuất bản những tác phẩm,
trong đó hai ông đã đúc kết những bài học kinh nghiệm của các
cuộc cách mạng 48-49 và vạch ra con đường đấu tranh cho giai
cấp công nhân.
Trước sự trưởng thành
về ý thức và tổ chức của phong trào công nhân khắp nơi và
trong cuộc đấu tranh nhằm quét sạch mọi ảnh hưởng tiểu tư
sản và bè phái, việc thành lập một tổ chức chung có tính
chất quốc tế của giai cấp công nhân đã trở thành một đòi
hỏi khách quan và bức thiết.
2.
Sự thành lập quốc tế thứ I.
Quốc tế thứ nhất ra đời
vào lúc ý thức đoàn kết quốc tế của giai cấp vô sản được
tăng cường. Nhờ có Marx tham gia nên ngay từ đầu, quốc tế thứ
nhất đã đi theo ngọn cờ của chủ nghĩa cộng sản khoa học và
là một tổ chức cách mạng mang tính quốc tế đầu tiên của
giai cấp vô sản.
Tại cuộc mít tinh ở
Saint Martins Hall tổ chức vào 28-9-1864 ở Luân Ðôn để ủng hộ
cuộc đấu tranh của nhân dân Ba Lan, giai cấp công nhân đã quyết
định thành lập tổ chức công nhân quốc tế lấy tên là Hội liên
hiệp công nhân quốc tế. Việc thành lập Quốc tế thứ I là
một tất yếu trong phong trào công nhân và là kết quả của quá
trình hoạt động cách mạng không ngưng nghỉ
của Marx- Engels.
?-
Những tiền đề của việc thành lập Quốc tế I ?
2.1.
Tuyên ngôn thành lập:
Sau khi thành lập, nhiệm
vụ quan trọng trước mắt của Quốc tế thứ nhất là vạch ra
những văn kiện có tính chất cương lĩnh xác định đúng đắn
mục đích và phương pháp đấu tranh của quốc tế. Bản cương lĩnh
của quốc tế được Marx hiệu đính lại trên cơ sở những dự
thảo của Wolff (Ý) và Weston (Anh). Trong tuyên ngôn, Marx đã tổng
kết tình hình kinh tế xã hội và phong trào công nhân của các nước
Châu Âu và Bắc Mỹ từ 1848-1864, những kinh nghiệm thất bại
của giai cấp công nhân trong các cuộc cách mạng những năm 48-49,
Marx đã kết luận: Sự nghiệp giải phóng của giai cấp công
nhân phải do giai cấp công nhân đảm đương, và việc giành chính
quyền trở thành một nghĩa vụ vĩ đại của giai cấp công nhân.
Tuyên ngôn nêu lên những
mục tiêu và nội dung của chủ nghĩa quốc tế vô sản, nhấn
mạnh đến vai trò, ý nghĩa, tác dụng quan trọng của sự thực
hiện và tăng cường đoàn kết, hợp tác anh em giữa giai cấp công
nhân các nước. Số lượng chỉ có sức nặng trên bàn cân khi nào
được liên kết lại và được kiến thức chỉ đạo.
Tuyên ngôn kêu gọi giai
cấp công nhân các nước đoàn kết đấu tranh chống chính sách đối
ngọai phản động của các chính phủ tư sản và phong kiến nhằm
thực hiện những qui tắc đúng đắn trong quan hệ giữa các dân
tộc. Tuyên ngôn kết thúc bằng khẩu hiệu Vô sản tất cả các nước
đoàn kết lại.
2.2.
Ðiều lệ tạm thời.
Bản điều lệ tạm
thời cũng do Marx viết lại sau khi sửa sai những tư tưởng của
Wolff, Le Lubez... Ðiều lệ chính thức được thông qua tại đại
hội Genève.
Ðiều lệ gồm có hai
phần: phần đầu có tính chất cương lĩnh và phần hai có 13 điều
cụ thể. Phần cụ thể gồm 13 điều nói về tên của Hội, mục
đích của Hội và những nguyên tắc tổ chức của Hội.
2.3.
Nguyên tắc tổ chức của hội là chế độ tập trung dân chủ. Cơ
quan tối cao của quốc tế là đại hội hàng năm, đại
hội bầu ra ban chấp hành trung ương (sau gọi là Tổng hội đồng).
Ban chấp hành trung ương cử ra một ủy ban thường trực. Cơ sở
của quốc tế là các chi bộ ở các địa phương.
Trong những năm đầu,
quốc tế liên hiệp nhiều tổ chức công nhân khác nhau như các công
đoàn, những hội tương tế, ái hữu, những hợp tác xã tiêu
thụ và sản xuất, những hội giáo dục và những câu lạc bộ chính
trị. Marx cho rằng trong thời gian đầu, thành phần
tổ chức quốc tế của giai cấp vô sản không khỏi phức
tạp nhưng đó không phải là thái độ hòa giải của Marx-Engels đối
với các trào lưu phi Mác-xít. Marx cho rằng tổ chức của hội
cần phải cứng rắn về thực chất, mềm dẽo về hình thức.
II. HOẠT ÐỘNG CỦA QUỐC TẾ |
Quốc tế hoạt động thông
qua đại hội hàng năm để nghe báo cáo về tình hình phát triển
của phong trào công nhân và thông qua những nhiệm vụ hành động.
Ban chấp hành trung ương ở Luân đôn đã hoạt động thường xuyên
và trở thành trung tâm chính trị của phong trào công nhân quốc
tế.
1.
Hội nghị Luân đôn (1865).
Năm 1865, nhiều chi bộ
của quốc tế được thành lập ở một số nước, nhưng chưa đủ
vững mạnh để có thể triệu tập đại hội vào 1865 như điều
lệ qui định. Theo đề nghị của Marx, một hội nghị bí mật
họp ở Luân đôn để kiểm điểm lực lượng và chuẩn bị cho
đại hội vào năm tới.
Trong hội nghị này, Marx
đã đấu tranh chống những người thuộc phái Prudhon không muốn
thảo luận những vấn đề chính trị như yêu cầu độc lập
của Ba Lan. Phái Prudhon đại diện cho những người xã hội Bỉ và
Pháp phủ nhận đấu tranh chính trị của giai cấp công nhân, phủ
nhận việc xây dựng chính đảng và giành chính quyền của giai
cấp vô sản, phủ nhận cuộc đấu tranh đòi hỏi phải có luật
pháp bảo vệ lao động...Cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa Prudhon
kéo dài trong ba đại hội.
2.
Ðại hội Genève (1866).
Lúc này, Marx bận viết
bộ tư bản nên không đến dự được nhưng ông đã chuẩn bị
một bản chỉ thị và hướng dẫn tỉ mĩ.
Ðại hội bàn và thông
qua một số vấn đề quan trọng trong phong trào công nhân: đòi ban
hành luật lao động, chế độ làm việc 8 giờ/ ngày, đòi bảo
hộ lao động, bàn về những hình thức và phương pháp đấu tranh
của giai cấp công nhân, sự đoàn kết quốc tế; cuộc đấu tranh
của giai cấp công nhân đối với chính sách của giai cấp tư
sản. Những người theo Prudhon đã chống đối lại những vấn đề
trên. Cuộc đấu tranh kết thúc bằng sự thất bại của phái Prudhon.
Ðại hội tán thành việc đòi pháp luật
thừa nhận chế độ làm 8 giờ/ngày, đòi bảo hộ lao
động, kêu gọi các công đoàn ủng hộ các phong trào chính trị và
xã hội tiến bộ: chống việc Nga hoàng đàn áp Ba Lan.
Lúc bấy giờ, cuộc
khủng hoảng kinh tế 1866 nổ ra ở các nước, gây ra một cao trào
bãi công của công nhân châu Âu. Quốc tế đã lãnh đạo và giúp
đỡ các cuộc bãi công đi đến thắng lợi. Sự ủng hộ của
quốc tế đối với phong trào công nhân đã làm cho Quốc tế trở
thành một trung tâm lãnh đạo phong trào công nhân quốc tế.
3.
Ðại hội Lausane (1867)
Tại Ðại hội này, đa
số đại biểu thuộc phái Prudhon đã
lái đại hội thông qua một số nghị quyết mang tính chất phản
cách mạng nhưng những vấn đề trọng yếu nhất thì những người
Mácxít thắng lợi. Ðại hội thông qua nghị quyết về những
nhiệm vụ chính trị của giai cấp công nhân: khẳng định việc
giải phóng công nhân về mặt xã hội sẽ không thực hiện được
nếu không giải phóng về chính trị, vì thế, việc cần thiết bước
đầu là phải thiết lập quyền tự do về chính trị. Ðại hội
cũng thông qua một nghị quyết về việc quốc hữu hóa những phương
tiệûn giao thông vận tải, quyền sở hữu tập thể về tư
liệu sản xuất...Tuy nhiên, đối với vấn đề quốc hữu hóa
ruộng đất, Ðại hội đã gặp phải sự phản đối kịch liệt
của phái Prudhon nên phải gác lại. Phái Prudhon đã thao túng đại
hội nhưng vẫn không nắm được quyền lãnh đạo quốc tế. Ban
Chấp Hành Trung Ương được bầu lại như cũ và trụ sở vẫn đặt
ở Luân đôn.
4.
Ðại hội Bruxelles (1868)
Cuộc đấu tranh gay gắt
giữa những người Mác xít và những người Prudhon lại tiếp
diễn, chủ yếu là vấn đề quốc hữu hóa ruộng đất. Ðại
hội thông qua một nghị quyết với đa số phiếu về việc đòi
chuyển ruộng đất rừng, kênh đào, hầm mỏ, đường xe lửa...
thành sở hữu tập thể. Ðại hội cũng thông qua một loạt nghị
quyết về bãi công, công đoàn, ngày làm 8 giờ; xác nhận lại
những nghị quyết của đại hội Genève. Ðại hội còn tán thành
một nghị quyết khuyên công nhân nghiên cứu quyển Tư bản mà
Marx vừa cho xuất bản.
Các nghị quyết của đại
hội chứng tỏ rằng phái Prudhon đã bị đánh bại. Ðại hội đã
sửa chữa những sai lầm của những nghị quyết tại đại hội
Lausane. Thất bại của phái Prudhon trong quốc tế
làm hình thành một phái Prudhon cánh tả đi gần với chủ
nghĩa cộng sản khoa học trên một số vấn đề.
Ðại hội Bruxelles họp
giữa lúc tình hình châu Âu đang căng thẳng, có nguy cơ xảy ra
một cuộc chiến tranh mới. Ðại hội đã thông qua một nghị
quyết có tính chất ảo tưởng coi bãi công là phương pháp hữu
hiệu để ngăn chặn chiến tranh. Marx đã phê bình và lên án
nghị quyết đó.
Marx và những người theo
Marx còn đấu tranh chống chủ nghĩa công đoàn ở Anh và chủ nghĩa
Lassalle ở Ðức. Những lãnh tụ của phong trào công đoàn Anh là
chỗ dựa cho phái Prudhon hoành hành, vì thế Marx không ngừng đấu
tranh gạt bỏ những khuynh hướng cơ hội chủ nghĩa của những lãnh
tụ công đoàn. Theo đề nghị của Marx, chức chủ tịch Ban Chấp
Hành Trung Ương do Odger giữ bị bãi bỏ. Ngoài ra, trong vấn đề
Ireland, Marx-Engel đã kêu gọi công nhân Anh ủng hộ phong trào
Fenians của Ireland và vạch rõ những sai lầm trong phong trào này để
việc đấu tranh của nhân dân Ireland được thắng lợi. Những
cuộc đấu tranh chống đường lối thỏa hiệp của các lãnh tụ
công đoàn Anh vẫn còn tiếp diễn trong những năm cuối cùng của
Quốc tế và cả sau khi Quốc tế đã giải tán.
Khi Quốc tế thành lập,
Lassalle đã chết, nhưng những người theo Lassalle vẫn ngoan cố
bảo vệ những luận điểm sai lầm. Marx-Engels đã giúp đỡ giai
cấp công nhân Ðức thành lập Ðảng công nhân chủ nghĩa xã hội
dân chủ Ðức: một chính đảng Marx-xít đầu tiên của giai cấp
công nhân Ðức. Thắng lợi này làm cho phái Lassalle bị phân hóa
mạnh.
5.
Ðại hội Bale. (1869)
Sau đại hội Bruxelles,
những phần tử tiểu tư sản trong Quốc tế I không thể công khai
hô hào chủ nghĩa cải lương và bảo vệ chế độ tư hữu. Họ
tiếp tục đấu tranh chống chủ nghĩa cộng sản khoa học bằng cách
tung ra những lời lẽ mập mờ về cách mạng và chủ nghĩa xã
hội, đó là chủ nghĩa Bakounine: một kẻ thù nguy hiểm của chủ
nghĩa Marx.
Quan điểm chính trị
của Bakounine thể hiện tâm trạng phiến loạn của tầng lớp
tiểu tư sản đã mất hết hy vọng thoát khỏi tình trạng vô
sản hóa. Nó được truyền bá rộng rãi ở những nơi mà nền công
nghiệp còn lạc hậu, giai cấp vô sản công nghiệp hình thành
rất yếu ớt. Chủ nghĩa vô chính phủ của Bakounine bác bỏ mọi
thứ nhà nước, kể cả nhà nước vô sản, phản đối việc thành
lập chính Ðảng vô sản và vai trò lãnh đạo của giai cấp vô
sản. Bakounine hô hào giai cấp vô sản từ bỏ đấu tranh chính
trị, tuyên truyền khẩu hiệu san bằng giai cấp mà thực chất là
hòa hợp giai cấp giữa tư sản và người lao động. Chủ nghĩa vô
chính phủ của Bakounine gần giống với chủ nghĩa Prudhon nhưng
nguy hiểm hơn vì nó không dùng những lời lẽ cải lương mà lại
nấp dưới danh nghĩa của chủ nghĩa Marx để che đậy bản chất
của nó. Nó hoàn toàn xa lạ với chủ nghĩa Marx.
Cuộc đấu tranh giữa
những người Marx-xít và Bakounine bùng nổ chung quanh vấn đề
quyền thừa kế. Bakounine cho rằng xóa bỏ quyền thừa kế bằng
con đường hợp pháp trong khuôn khổ xã hội tư sản là một
biện pháp để chuyển sang chế độ sở hữu tập thể. Marx đã
phê phán luận điểm này và cho rằng cần phải đấu tranh chống
chính quyền tư sản để giành lấy chính quyền, khi đó quyền
thừa kế sẽ không còn ý nghĩa gì nữa.
Sau đại hội Bale, nhóm
Prudhon ly khai Quốc tế, công nhân Pháp và Bỉ tập trung trong phái
Prudhon cánh tả; Bakounine thất bại trong đại hội Bale, chuyển
sang hoạt động chia rẽ chi bộ quốc tế ở Thụy sĩ và dùng báo
chí để chống Marx. Cuộc đấu tranh chống Bakounine vẫn còn tiếp
tục cho đến khi Quốc tế ngừng hoạt động.
Quá trình hoạt động và
tồn tại của Quốc tế là một quá trình đấu tranh gay gắt và
liên tục của chủ nghĩa Marx đối với
những tư tưởng phi vô sản. Cuộc đấu tranh của Quốc tế
I chống lại những người theo tư tưởng phi Marx xít diễn ra trên
các vấn đề: chính trị, kinh tế - xã hội, tổ chức. Về chính
trị: đấu tranh để giành quyền chính trị cho giai cấp vô sản
thông qua nhà nước chuyên chính vô sản (các phái khác phủ nhận
đấu tranh chính trị). Về kinh tế: các phái phản đối xã hội hóa
tư liệu sản xuất, cố ý tách đấu tranh kinh tế ra khỏi đấu
tranh chính trị nhưng Marx cho rằng một cuộc đấu tranh của công
nhân về hình thức có vẻ như một cuộc đấu tranh kinh tế, nhưng
thực chất là đấu tranh chính trị. Về tổ chức: những người
mang tư tưởng phi Marx xít đã coi nhẹ việc thành lập chính Ðảng
của giai cấp công nhân.
Trong lịch sử tồn tại
của mình, thông qua con đường đấu tranh, Quốc tế thứ nhất đã
giành từng bước thắng lợi trên các lĩnh vực kinh tế, chính
trị, xã hội. Cương lĩnh xã hội chủ nghĩa của Quốc tế đã
chinh phục được đông đảo giai cấp vô sản, làm cho sự nghiệp
của Quốc tế thứ nhất không bị phai mờ.
Marx đã tích cực hoạt
động trong việc thành lập Quốc tế đồng thời cũng là người
điều hành và lãnh đạo mọi vấn đề của tổ chức này. Ông chính
là ì linh hồn của Quốc tế thứ nhất như Lênin đã nhận định.
?-
Vai trò của Marx -Engels trong việc thành lập Quốc tế thứ nhất ?
?-
Những hoạt động của Quốc tế ?