CHƯƠNG 2 : CÁC TRÀO LƯU TƯ TƯỞNG VÀ TRIẾT HỌC THẾ KỶ XVII-XVIII
KHỞI ÐẦU CÁCH MẠNG
BÀI 3: TRÀO LƯU TƯ TƯỞNG VÀ TRIẾT HỌC THẾ KỶ XVII-THẾ KỶ XVIII
BÀI 4: KHỞI ĐẦU CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP
Từ
khóa: phương pháp qui nạp, phương pháp thực
nghiệm, quyền tự nhiên, luật tự nhiên, triết học Ánh Sáng, cách
mạng công nghiệp.
Mục
đích: Chương này gồm 2 bài:
Bài 3: Giới thiệu cho
sinh viên sự tiến bộ của khoa học và sự phát triển của
triết học thế kỉ XVII. Những sự kiện này đã làm thay đổi
thế giới quan của con người. Sự phát triển của triết học
thế kỉ XVII là tiền đề để
trào lưu tư tưởng Aïnh Sáng phát triển, đặc biệt là ở Pháp.
Bài 4:
Giới thiệu cho sinh viên những tiền đề và nội dung chính
của cuộc CMCN ở Anh. Cuộc cách
mạng này dẫn đến những thay đổi không những trong lĩnh vực
kinh tế, chính trị ở Anh mà còn ảnh hưởng đến tình hình sản
xuất của thế giới lúc bấy giờ.
Yêu
cầu: Sinh viên cần nắm vững những nội dung
sau:
Bài 3:
-Các phương pháp NCKH
của các nhà khoa học thế kỉ XVII.
-Tư tưởng của Hobbes và
Locke về vấn đề chính quyền, khái niệm về quyền tự nhiên và
luật tự nhiên.
- Nội dung của triết
học Aïnh Sáng.
Bài 4:
- Những tiền đề của
CMCN.
-Các phát minh lớn trong
những lĩnh vực: CN nhẹ, CN động lực, luyện kim, GTVT.
-
Hệ quả
của CMCN. (
I. TRÀO LƯU TƯ TƯỞNG THẾ KỶ XVII |
1.
Những người đề xướng một nền
văn minh mới.
Vấn đề nhận thức
thế giới:
Quan điểm nhìn nhận các
sự kiện tự nhiên và xã hội một cách khoa học là đặc điểm
của xã hôiü châu Âu thế kỷ XVII. Sự tiến bộ của khoa học
trong thế kỷ XVII đãî đưa xã hội châu Âu bước vào một giai
đoạn mới trong vấn đề nhận thức thế giới và làm thế nào
để có được một tri thức đúngû là vấn đề mà các nhà khoa
học đặc biệt quan tâm. Bacon và Descartes là hai nhà triết học đi
tiên phong trong việc đặt ra vấn đề nhận thức thế giới.
1.1.
Bacon: (1561--1626) là nhà triết học người Anh. Vào khoảng năm
1620--1640, Bacon cho xuất bản những tác phẩm
nổi tiếng của ông. Những tác phẩm này đã gây một ảnh hưởng
lớn đối với xã hội lúc bấy giờ. Ông dự định viết một
bộ sách gồm nhiều quyển tựa là Cuộc cải cách lớn(Great
Renewal). Ông hoàn thành hai phần, một được xuất bản vào năm
1620 mang tên "Phương pháp mới lĩnh hội kiến thức (Novum
Organum) và một xuất bản vào năm 1623 mang tên Sự tiến bộ của
việc học tập (The advancement of learning).
Trong tác phẩm Novum
Organum, Bacon đã đề cập đến phương pháp mới để lĩnh hội
kiến thức. Phương pháp đó gọi là phương pháp qui nạp (inductive
method). Ðể nghiên cứu các sự vật và hiện tượng, ta phải đi
từ cái riêng đến cái chung, từ cái cụ thể đến cái trừu tượng.
Bacon khuyên con người nên gác lại những tư duy truyền thống cũ,
không nên có những thành kiến và định kiến, mà nên nhìn thế
giới với một cái nhìn mới (fresh eyes) để quan sát và nghiên
cứu vũ trụ.
Trong tác phẩm The
advancement of learning, Bacon đã phát triển tư tưởng một kiến
thức đúng (true knowledge) là một kiến thức hữu ích(useful
knowledge). Tư tưởng về sự hữu ích của kiến thức trở thành
một yếu tố chính trong triết học của Bacon. Một kiến thức đúng"
được vận dụng trong những
lĩnh vực của thực tiễún là bằng chứng của việc sử dụng
kiến thức. Thí dụ: các binh sĩ nhắóm trúng mục tiêu của họ
một cách chính xác hơn đó là việc khoa học hóa lý thuyết đạn
đạo học (đường đi của đạn). Tuy còn những nhược điểm
nhất định, nhưng những lý thuyết của Bacon về phương pháp
nhận thức thế giới và ứng dụng những kiến thức của con người
vào các vấn đề thực tiễn
của cuộc sống là một trong những đóng góp của ông vào sự phát
triển của triết học thế kỷ XVII.
1.2.
Descartes (1596-1650) : Ông là một nhà khoa học, đồng thời là một
nhà triết học lớn của Pháp và châu Âu. Ông
là người đề ra phương pháp mới trong vấn đề nhận thức:
"phương pháp thực nghiệm (emperism).
Triết học của
Descates gắn liền với toán học và vật lý học của ông. Ông đã
đề cao vai trò của triết học đối với con người. Theo ông, trình
độ phát triển tư duy triết học là chuẩn mực quan trọng để
đánh giá mức độ văn minh của con người. Descartes xây dựng
một nền triết học duy lý. Ông đã đề cao vai trò của lý tính,
trí tuệ con người, xem đó là tiêu chuẩn
để đánh giá những hoạt động và suy nghĩ của con người.
Việc đề cao tư duy lý luận của Descartes là sự cổ vũ mạnh
mẽ cho sự phát triển của các ngành khoa học. Descartes còn cho
rằng mục đích cuối cùng
của tri thức là ở sự thống trị của con người đối với
lực lượng tự nhiên, ở sự phát minh và sáng chế những phưong
tiện kỹ thuật, ở sự nhận thức những nguyên nhân của hành
vi, ở sự hoàn thiện bản tính con người. Ðể đạt đến mục
đích này, Descartes cho rằng
cần phải hoài nghi mọi sự tồn tại hiện có, xem đây là biện
pháp để tìm ra cơ sở tuyệt đối xác thực của sự hiểu
biết. Descartes nổi tiếng với câu Tôi suy nghĩ, vậy tôi tồn
tại. Nguyên lý này đề cao vai trò tích cực của con người đối
với thế giới, xem con người là trung tâm của các vấn đề
triết học. Việc Descartes coi trọng trí tuệ con người, đề cao tư
duy khoa học là một quan niệm cách mạng trong bối cảnh lịch sử
Châu Âu lúc bấy giờ.
?
-Nêu những điểm khác nhau và giống nhau trong lí thuyết
của Bacon và Descartes.
2.
Cuộc cách mạng trong lĩnh vực khoa học.
Những hiểu biết, tri
thức của con người trong thế kỷ XVII đã làm thay đổi cách nhìn
của con người đối với thế giới. Từ thời xa xưa, Ptolémée đã
đưa ra học thuyết địa tâm, học thuyết này đã ảnh hưởng khá
lâu trong xã hội châu Âu. Mãi đến khi Copernic tìm ra lý thuyết
mới về vũ trụ, quan niệm của con người về thế giới mới
thay đổi. Từ đó, vũ trụ được con người chinh phục, chế
ngự, nó không còn là một điều huyền bí như tôn giáo đã quan
niệm.
2.1.
Từ Copernic đến Gallileo.
+ Copernic: Copernic là người
đề xướng ra thuyết nhật tâm.
Theo ông, mặt trời là một định tinh và ở trung tâm của hệ
mặt trời. Học thuyết của Copernic đã được Kepler tiếp thu và
phát triển thêm, nhưng Kepler cho rằng quĩ đạo của các hành tinh
là hình ellipse. Các hành tinh đều quay xung quanh mặt trời theo quĩ
đạo ellipse gần tròn, có hướng ngược với chiều quay của kim
đồng hồ (nhìn từ cực bắc xuống). Kepler đã mô tả sự vận
động của các hành tinh bằng một hệ công thức
toán học rõ ràng.
+ Sau Copernic và Kepler là
Gallileo. Năm 1609, Gallileo đã chế tạo một viễn vọng kính và dùng
nó để quan sát các hành tinh. Ông
khám phá ra rằng các hành tinh có một kích thước nhìn thấy được
khi quan sát bằng viễn vọng kính. Những khám phá của Gallileo đã
khẳng định học thuyết đúng đắn của Copernic. Xa hơn nữa,
Gallileo đã tìm ra định luật toán học để miêu tả sự vận động
của các vật thể trên trái đất, từ đó, ông bắt đầu nghiên
cứu vềì sự chuyển động của các vật thể trên trái đất.
2.2.
Newton.
Những định luật của
Kepler và Galllileo là tiền đề cho sự phát triển nguyên lý của
Newton. Ông là người sáng lập ra cơ học cổ điển và nêu lên định
luật vạn vật hấp dẫn. Tác phẩm chính của Newton là Những nguyên
lý toán học của triết học tự nhiên (1687). Trong tác phẩm này,
Newton đã cho rằng mọi sự chuyển động đều có thể đo lường
được, ngay cả trên mặt đất hoặc trong hệ mặt trời. Ðịnh
luật vạn vật hấp dẫn không những đã hoàn chỉnh quan niệm
về hệ mặt trời lấy mặt trời làm trung tâm, mà còn tạo ra cơ
sở khoa học để giải thích các quá trình diễn ra trong toàn bộ
vũ trụ, trong đó có quá trình vật lý học và quá trình hóa
học.
Vào thời kỳ Newton, sự
hình thành các tổ chức khoa học đã trở thành mục tiêu của các
nhà khoa học. Những người giàu có đã đề ra việc tổ chức các
hoạt động khoa học. Thí du:û tổ chức Royal Society in London
(1662), Royal Academy of Science in France (1666). Những tổ chức này đã
đề ra các chương trình nghiên cứu, tổ chức các cuộc hội
nghị, xuất bản sách báo...Những hoạt động này chứng tỏ
rằng khoa học đã trở thành một trong các hoạt động chính của
xã hội.
2.3.
Aính hưởng của cách mạng khoa học đối với ì tư duy con ngưòi.
Những tiến bộ trong lĩnh
vực khoa học của thế kỷ XVII đã ảnh hưởng đến tư duy con người.
Trong tư duy của người thời
bấy giờ đã có sự thay đổi. Những cảm giác về sự lệ
thuộc vào thượng đế trước kia không còn nữa. Con người trở
thành chủ thể sáng tạo có lí trí với khả năng vô cùng to lớn. Con người sống trong một thế
giới mà họ hiểu và chinh phục được. Tất cả mọi vật đều
có thể có lý dưới nhận thức của con người. Những ý tưởng
mới này đã góp phần thế tục hóa xã hội châu Âu và làm giảm
lòng tin của con người vào tôn giáo. Những khám phá trong lĩnh
vực khoa học đã củng cố thêm triết học về luật tự nhiên
của thời cổ đại. Triết học này được người Hi lạp khám phá
và được bổ sung vào thời trung đại, nó cho rằng trong thế
giới có một trật tự và có quyền tự nhiên. Quyền này được
hiểu bằng lý trí và được sử dụng rộng rãi cho tất cả mọi
người. Ðây là những tiền đề về quyền tự nhiên của con người
mà những nhà triết học Ánh Sáng đề ra sau này.
3.
Triết học thế kỷ XVII.
Cuộc cách mạng khoa học
đã ảnh hưởng đến những lĩnh vực khác trong xã hội châu Âu
thế kỷ XîVII, trong đó có lý thuyết về chính trị. Ðây là
một trong những vấn đề quan trọng trong sự phát triển của
chủ nghĩa dân chủ hiện đại. Những nhà triết học thế kỷ
XVII là những triết gia về quyền tự nhiên và luật tự nhiên,
trong đó tiêu biểu nhất là Thomas Hobbes và Jonh Locke.
3.1.
Thomas Hobbes (1588 - 1679)
Hobbes là một nhà triết
học nổi tiếng, đại biểu của chủ nghĩa duy vật Anh thế kỷ
XVII. Ông đã phát triển và hệ thống hóa chủ nghĩa duy vật cuả
Bacon. Theo ông, thế giới là toàn bộ những vật thể tuân theo
những quy luật vận động cơ học. Ông thừa nhận sự tồn tại
khách quan của thế giới có trước con người và không phải do chúa
tạo ra.
Học thuyết về pháp
luật và nhà nước là học thuyết phổ biến của ông. Trong học
thuyết nầy, Hobbes đã bác bỏ những thuyết cho rằng thượng đế
là người xếp đặt xã hội. Ông quan niệm nhà nước lập ra để
phục vụ con người. Ðây là một đòn giáng vào chủ nghĩa duy tâm,
thần thánh hóa chế độ phong kiến đang thối nát. Thực chất
việc khẳng định cần thiết phải xóa bỏ trạng thái tự nhiên
của con người ở Hobbes là sự thể hiện xu thế tư sản tiến
bộ, đấu tranh đòi phá bỏ thần quyền và sự phân biệt đẳng
cấp của chế độ phong kiến, đòi mở rộng dân chủ và tiến
bộ xã hộüi.
3.2.
John Locke (1632-1704)
Locke được xem như đại
biểu cho luồng tư tưởng khoa học thế kỷ XVII. Ông là người cùng
tư tưởng với Hobbes về vấn đề chính quyền. Ông cho rằng chính
quyền là một hình thức tổ chức vì mục đích của con người,
và phải dựa trên một khế ước xã hội.
Năm 1680, Locke viết
quyển Hai thỏa ước của chính quyền (Two Treaties of Government).
Trong tác phẩm này, Locke đã nêu lên quan điểm của mình về con
người tự nhiên. Theo ông, con người ơ í trạng thái tự nhiên có
lý trí và được tổ chức tốt. Họ có một ý thức đạo đức,
và dường như độc lập với chính quyền. Họ có một số quyền
tự nhiên: quyền sống, tự do và sở hữu. Locke nhấn mạnh đến
quyền sở hữu đất đai. Trong học thuyết về nhà nước và pháp
luật, Locke cho rằng mục đích của nhà nước là bảo vệ tự do
và sở hữu do lao động đem lại. Do đó, quyền lực của nhà nước
không thể võ đoán, mà phải được xây dựng trên một khế ước
được thực hiện từ hai phiá: nhân dân và chính quyền. Học
thuyết nhà nước của Locke là một thử nghiệm việc vận dụng lý
luận vào hình thức quản lý chính trị được thành lập ở Anh năm
1688.
II. TRIẾT HỌC THẾ KỶ ÁNH SÁNG |
1.
Trào lưu tư tưởng Ánh Sáng.
Triết học Ánh Sáng thế
kỷ XVIII là sự kế thừa và phát triển mới về chất các khuynh
hướng tư tưởng bài trừ siêu hình học thế kỷ XVII. Nó bắt đầu
từ sự phê phán một cách không thương tiếc các quan niệm cũ
về thế giới và con người. Tư tưởng quan trọng nhất trong số
này là những yếu tố của phép biện chứng trong học thuyết về
quyền tự nhiên của Diderot. Trong những học thuyết về chính
trị, đạo đức, các nhà triết học thế kỷ XVIII đã giải phóng
ở mức độ đáng kể những học thuyết về đạo đức và quan
niệm chính trị- xã hội của họ khỏi những hạn chế có tính
chất tự nhiên chủ nghĩa. Lý tưởng chung của các nhà Khai sáng là
ý tuởng về sự tiến bộ (idea of progress). Ðó là sự tin tưởng
rằng điều kiện sống của con người sẽ ngày càng tốt hơn và
thế hệ sau sẽ sống tốt hơn thế hệ trước; đồng thời họ
sẽ đóng gópï hoạt động, lao động của họ cho cuộc sống
của thế hệ mai sau, đó là con đường mà nhân loại cùng chia
xẻ để cùng nhau phát triển.
Các nhà Khai sáng, thông
qua ngòi bút của mình, đã tập hợp những tầng lớp trong xã
hội để hướng đến cuộc đấu tranh lật đổ chế độ phong
kiến. Những tác phẩm của họ là vũ khí lý luận của giai cấp
tư sản trong thời kỳ chuẩn bị cách mạng.
Trong tác phẩm A History of
The Mordern World NXB Mc-Graw Hill (1995), Palmer đã chia các tác giả
của thế kỷ XVIII làm hai loại: một gọi là các philosophes và
một gọi là các political economist
2.
Các philosophes: đó là những triết gia nhưng không phải là triết
gia theo nghĩa của triết học. Nói một cách chính
xác hơn, họ là những nhà văn, nhà tư tưởng, nhà truyền bá và
công khai hóa tư tưởng Ánh Sáng. Những tác phẩm của họ là vũ
khí lý luận của giai cấp tư sản trong thời kỳ chuẩn bị cách
mạng.
Phong cách hành văn
của các nhà văn thế kỷ XVIIIï sáng sủa, chính xác, mạch lạc.
Các độc giả thời kỳ này khá đông đảo, thuộc nhiều thành
phần: giới kinh doanh, những người có nghề nghiệp chuyên môn, các
tầng lớp trung lưu. Báo và tạp chí tăng lên khá nhiều. Các tư tưởng
của nhà văn được phổ biến rộng rãi.Ai không thể đọc báo
ở nhà thì có thể đến các quán cà phê (coffee house) hoặc những
phòng đọc được mở ra khắp nơi với mục đích phổ biến tư tưởng
của thế kỷ Ánh Sáng.
Pháp được xem như trung
tâm của phong trào Ánh Sáng và Paris trở thành trái tim của các
hoạt động văn học thế kỷ XVIII. Thời kỳ này ở Paris, các trí
thức hoặc tư sản giàu có đã tổ chức ra các salon: đó là nơi
các nhà văn, nghệ sĩ gặp gỡ,trao đổi ý kiến. Các salon trở thành
trung tâm của các cuộc tranh luận chính trị. Các salon này tồn
tại đến CM Pháp và thậm chí có nơi tồn tại sau cả thời kỳ
CM. (Salon của bà Geoffin, của góa phụ hai nhà triết học nổi
tiếng là Helvetius và Condorcet hoặc của bà Stael)
Những đại biểu tiêu
biểu:
-
Montesquieu (1689- 1755)
Montesquieu không phải là
nhà văn lớn nhất của Thế kỷ Ánh Sáng, nhưng có một vị trí
đặc biệt trong dòng văn học này vì ông là người sáng lập ra
nền văn chương chính trị ở Pháp. Montesquieu thuộc tầng lớp quí
tộc áo dài, điều đó giải thích sự hạn chế trong tư tưởng
của ông. Ông thiếu cái tâm hồn sục sôi cách mạng của thế
kỷ XVIII. Ông là nhà tư tuởng ôn hòa nhất trong các nhà triết
học Ánh Sáng lúc bấy giờ.
Tư
tưởng chính trị của Montesquieu thể hiện rõ nhất trong quyển
Tinh thần pháp lý (lesprit des lois). Trong tác phẩm này, chúng ta
thấy toát lên sự căm ghét của Montesquieu đối với chế độ
chuyên chế và sự băn khoăn tìm kiếm một hình thức nhà nước
phù hợp cho Pháp lúc bấy giờ. Ông nghiên cứu các thể chế chính
trị từ xưa đến lúc bấy giờ và phân biệt ba hình thức nhà nước:
Cộng hòa, Quân chủ lập hiến và Quân chủ chuyên chế. Ông cho
rằng chế độ Cộng hòa là tốt đẹp nhưng trên thực tế không
thực hiện được. Theo ông, chế độ chính trị tốt nhất là nhà
nước Quân chủ lập hiến như ở Anh. Cũng trong quyển Tinh thần
Pháp Lý, Montesquieu chủ trương "tam quyền phân lập": Hành
pháp, Lập pháp, Tư pháp độc lập và không phụ thuộc vào nhau,
nhưng kiểm soát lẫn nhau. Nguyên tắc này được giai cấp tư sản
vận dụng vào chế độ chính trị của họ. Tác phẩm Tinh thần
pháp luật thể hiện tư tưởng chống phong kiến rõ rệt nhất
của Montesquieu và đóng góp một phần đáng kể vào trào lưu tư tưởng
Aïnh Sáng.
-
Voltaire (1694-!778) :
Tên
thật là Francois Marie Arouet, sinh tại Paris 29-1-1694. Ông xuất thân trong một gia đình giàu có. Mặc dù có
những quan điểm hạn chế, Voltaire là người đóng vai trò quan
trọng trong dòng văn học Aïnh Sáng. Các sáng tác của ông đã đóng
góp một cách xuất sắc vào kho tàng kiến thức nhân loại.
Voltaire vừa là một nhà
triết học đồng thời còn là một nhà sử học, nhà thơ, nhà
viết kịch. Trong những tác phẩm của ông, tư tưởng nổi bật là
chống chế độ phong kiến và nhà thờ Thiên chúa giáo, chính vì
vậy mà nhiều lần ông bị giam vào ngục Bastille. Trong quyển
Những lá thư triết học, ông đã lên án chế độ phản động và
lạc hậu của phong kiến và nhà thờ Thiên chúa giáo. Quan điểm
chính trị của ông là thực hiện việc cải cách từ trên xuống.
Ông đề ra việc cải cách chế độ phong kiến dưới một hình
thức Quân chủ sáng suốt và giành quyền thống trị cho những ngưòi
giàu có. Tuy còn những quan điểm hạn chế và mâu thuẫn trong tư
tưởng, Voltaire vẫn đóng một vai trò quan trọng trong triết học
Aïnh Sáng. Những tác phẩm lý luận, văn thơ, kịch của ông đều
mang một chủ đề chung là tinh
thần chống chế độ phong kiến, chống tôn giáo, chế giễu thói
mê tín dị đoan, ca ngợi lý trí và tuyên truyền cho lòng khoan
dung.
-
Rousseau (1713-1784)
Ông xuất thân trong một
gia đình bình dân, con của một người sửîa đồìng hồ ở
Thụy sĩ. Từ nhỏ, ông đã phải chịu đựng một cuộc sống
cực khổ: phải đi lang thang nhiều nơi để kiếm sống, làm
nhiều nghề để kiếm ăn, vì vậy, ông gần gũi và thông cảm
với quảng đại QCND.
Rousseau là một nhà văn
đồng thời cũng là một nhà triết học. Tư tưởng của ông vượt
xa những người đương thời. Ông cũng lên án chế độ phong
kiến và giáo hội như Montesquieu, Voltaire nhưng ông còn đề cập
đến chủ quyền của nhân dân. Do đó, ông có tư tưởng gần gũi
với những người thấp nhất trong Ðẳng cấp thứ ba.
Quan niệm về Con người
tự nhiên là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong những tác phẩm của
Rousseau. Con người tự nhiên không bị một ràng buộc nào của xã
hội nhưng vì phải sống trong xã hội,
chịu những ràng buộc của xã hội, con người gặp phải sự
bất bình đẳng và chính sự bất bình đẳng ấy đã dẫn con người
đến tai họa. Từ đó, Rousseau đi đến kết luận: chính tư hữu
là nguyên nhân sinh ra sự bất bình đẳng của xã hội loài người.
Tư hữu tài sản tạo ra kẻ giàu, người nghèo. Kẻ giàu đặt ra
những luật lệ để làm cho tài sản của họ trở thành chính đáng;
sau đó họ đặt ra những hình
thức chính quyền để công nhận những luật lệ ấy, từ đó
sinh ra kẻ thống trị và người bị thống trị mà đỉnh cao
nhất của sự bất bình đẳng đó là chế độ chuyên chế. Khi
quan niệm tư hữu là nguồn gốc của mọi sự bất bình đẳng
trong xã hội, Rousseau nêu lên chủ trương hạn chế quyền tư
hữu, chuyển từ đại tư hữu sang tiểu tư hữu. Chính tư tưởng
tiểu tư sản của ông đã ảnh hưởng đến những nhà hoạt động
cách mạng Pháp.
Quan điểm chính trị quan
trọng của Rousseau là Ý dân (General will). Với quan niệm bất bình
đẳng là sản phẩm của xã hội, ông cho rằng con người tạo ra
nó thì cũng có thể phá hủy nó: nhân dân lao động giết chết,
hoặc truất ngôi bạo chúa là một việc làm chính đáng. Từ đó,
ông chủ trương con người cần phải được giải phóng khỏi
những quan hệ thống trị để đạt đến sự tự do của mình, đó
là Ý dân. "Ý dân là tuyệt đối, là không thể sai lầm, và
không thể chia cắt". Với quan niệm Ý dân là tuyệt đối,
Rousseau đã chủ trương con người cần phải xây dựng một xã
hội trên cơ sở một khế ước được các thành viên tuân theo để
đảm bảo cho sự tự do và bình đẳng của mình.
Trong khi Montesquieu,
Voltaire chủ trương xây dựng một chính quyền thuộc về những
tầng lớp trên của xã hội thì Rousseau chủ trương một chính
quyền thuộc về nhân dân, bảo đảm thực hiện Ý dân cao nhất.
Cương lĩnh chính trị của ông đã ảnh hưởng đến những nhà cách
mạng Pháp.
-Diderot
và bộ Bách khoa toàn thư (1713--1784)
Diderot là một nhà văn
xuất sắc của thế kỷ XVIII, tên tuổi ông đại diện cho một
thế kỷ sôi nổi và hào hùng. Tác phẩm đồ sộ nhất của
Diderot là bộ Bách khoa toàn thư. BKTT là một công trình khoa học
lớn lao, là bộ tự điển khảo luận về khoa học, nghệ thuật,
công thưong nghiệp..., trong đó tác giả đề cập tới những vấn
đề chính trị, đạo đức, nghệ thuật, triết học, kỹ
thuật.... Những vấn đề trên được trình bày theo quan điểm duy
vật, mặc dù tính duy vật của những người theo phái BKTT còn
mang tính máy móc. Khuynh hướng kinh tế tiêu biểu của nhóm BKTT là
khuynh hướng của nhóm tự nhiên luận. Chủ trương của nhóm này
là tự do hoạt độüng kinh tế, với khẩu hiệu nổi tiếng Hãy
để cho làm, hãy để cho đi. Từ đó, họ đi đến khuynh hướng
bảo vệ triệt để quyền tư hữu: mọi vi phạm của pháp luật vào
quyền tư hữu chính là sự
lật đổ xã hội. Về mặt chính trị và xã hội, chủ trương
của phái BKTT là lập trường ôn hòa, mặc dù họ là những người
chống đối chế độ phong kiến và nhà thờ.
Công lao lớn nhất của
họ là khẳng định lòng tin con người vào sự tiến bộ của khoa
học và đề cao lý tính. Nhóm BKTT đã góp phần truyền bá tư tưởng
duy vật chủ nghĩa (dù còn những hạn chế nhất định), làm cho
CNDV giành được thắng lợi và trở thành một khuynh hướng
chiếm ưu thế trong triết học Pháp thế kỷ XVIII.
3.
Những nhà kinh tế-chính trị học:
Theo
Palmer (sách đã dẫn), bên cạnh những triết gia, còn có những nhà
kinh tế gọi là Phisiocrats
(hoặc political economist) vì những tranh luận của họ thường là các
vấn đề về kinh tế. Kinh tế, hay sau này chúng ta gọi là kinh
tế- chính trị học, nảy sinh từ hoạt động của các Phisiocrats.
Từ sự tổng hợp và phân tích các dữ liệu mang tính định lượng,
họ đã phát triển một khoa học mới: môn thống kê học. Sự phê
bình và phân tích các hiện tượüng kinh tế là một hoạt động
phổ biến thời kỳ này, đặc biệt ở Anh. Cũng tại đây, Adam
Smith đã cho xuất bản tác phẩm Cuộc điều tra về tự nhiên và
nguyên nhân của sự thịnh vưọng quốc gia (1690) (Enquiry into the
nature and cause of the wealth of nation)
Trong tác phẩm của mình,
Adam Smith đã nêu lên ý tưởng: cần gia tăng sự thịnh vượng
của quốc gia bằng cách hạn chê únhững trở ngại của sự phát
triển. Ông cũng đề xướng ra lýï thuyết về việc kinh doanh
của cá nhân. Ông là người tiên phong trong tư tưởng về thị trường
tự do. Theo ông, động cơ của việc sản xuất và trao đổi là do
lợi nhuận cá nhân. Ông đưa ra ví dụ : ông hàng thịt gây lòng
tin với khách hàng khi mua bán không phải vì ý muốn tốt đẹp
của ông ta, mà là do sự quan tâm đến lợi nhuận của ông ta.
Mặc dù người đương thời phản đối, cho rằng lý thuyết kinh tê
úcủa Adam Smith mang tính vị kỷ, cá nhân, nhưng theo ông, đó là
một thực tế miêu tả quan hệ của con người với nhau trong xã
hội tư sản. Tính cá nhân trong hoạt độüng kinh tế, theo Adam
Smith là thể hiênû một cách chủ yếu tính tuyệt đối của tự
do.
4.
Ảnh hưởng của
triết học Ánh Sáng đối với xã hội Châu Âu.
Trong thời kỳ khủng
hoảng của chế độ phong kiến mặc dù có những quan điểm khác
nhau, các nhà tư tưởng Aïnh Sáng đều chĩa mũi nhọn đấu tranh vào
chính quyền quân chủ chuyên chế. Họ đòi hỏi phải thay chế độ
cũ bằng một chế độ xã hội mới tốt đẹp hơn. Dựa trên
những tiến bộ của khoa học kỹ thuật, các nhà tư tưởng Aïnh
Sáng cho rằng con người phải chế ngự được tự nhiên và làm
cho xã hội phát triển không ngừng. Họ còn quan tâm đến sự bình
đẳng, đó là sự bình đẳng về quyền con người không phân
biệt tôn giáo, chủng tộc. Sự bình đẳng thể hiện trong nghĩa
vụ đóng thuế, trong luật pháp...Cuộc đấu tranh của họ phổ
biến trên các mặt: triết học, văn học, nghệ thuật, khoa
học...Chính vì vậy, trào lưu tư tưởng tiến bộ và cách mạng
đó đã vượt khỏi nước Pháp và ảnh hưởng khá rộng đến châu
Âu lúc bấy giờ.
Thời kỳ này, Pháp là
trung tâm của phong trào Aïnh Sáng. Những nhà triết học Aïnh Sáng
đã đi du lịch khắp châu Âu và truyền bá tư tưởng của họ.
Tiếng Pháp trở thành một ngôn ngữ chính của Viện Hàn lâm Saint
Petersbourg và Berlin. Vua Phổ Frederick
II và nữ hoàng Nga Catherine II đã mời những nhà tư tưởng Pháp
đến thăm triều đình của họ. Văn hóa Pháp trở thành văn hóa
phổ biến trong các tầng lớp trên ở xã hội châu Âu. Bên
cạnh đó, vai trò của Anh cũng không kém phần quan trọng. Anh cũng
trở thành một trong những trung tâm của phong trào Aïnh Sáng. Lý
thuyết về sự tự do của nước Anh và chính quyền nghị viện
trở thành vấn đề tranh cãi của các nhà tư tưởng Aïnh Sáng. Dưới
ảnh hưởng của tư tưởng Khai sáng, ý tưởng về một nhà nước
được hình thành. Theo họ, dù dưới những hình thức nhà nước
nào: Quân chủ hạn chế (như Montesquieu quan niệm), hay Quân chủ Sáng
suốt (Voltaire), hoặc một nền Cộng Hòa lý tưởng (Rousseau), thì
tổ chức nhà nước thật sự đúng đắn và có trật tự được
xem như là một sự bảo đảm tuyệt đỗi những phúc lợi của nhân
dân. Những nhà triết học Aïnh Sáng tin tưởng rằng nhân loại
sẽ cùng thống nhất dưới ý nghĩa một luật tự nhiên về
quyền con người., họ cùng nhau góp phần vào sự phát triển chung
của xã hội.
?-Các
nhà triết học Aïnh Sáng đã xây dựng lí luận của mình trên cơ
sở nào?
?-
Ảnh hưởng của triết học Aïnh Sáng đối với xã hội Pháp và
Châu Âu?
Bài
4:
KHỞI ÐẦU CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP |
Vào thế kỷ XVII, cách
mạng công nghiệp nổ ra ở Anh sau khi cách mạng tư sản Anh thắng
lợi đã đưa chủ nghĩa tư bản phát triển lên một giai đoạn
cao. Cuộc cách mạng này đánh
dấu một bước ngoặt quan trọng trong quá trình sản xuất kinh
tế ở Anh. Nó đem lại một sự biến đổi lớn không những trong
nền kinh tế Anh, mà còn ảnh hưởng đến các nước khác ở châu
Âu.
I. NHỮNG TIỀN ÐỀ CỦA CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP |
1.
Quá trình tích lũy TBCN ở Anh.
So với bất cứ nước nào
ở Châu Âu, Anh có đầy đủ điều kiện thứ nhất của nền
sản xuất tư bản; đó là tích lũy tư bản. Quá trình tích lũy tư
bản ở Anh được thực hiện thông qua sự bành trướng thuộc địa,
mậu dịch hải ngoại và buôn bán nô lệ.
Nước Anh bắt đầu bành
trướng thuộc địa từ thế kỷ XV-XVII nhưng phải đợi đến
thế kỉ XVIII, Anh mới chiếm địa vị hàng đầu trên mặt biển
sau khi đánh bại các địch thủ của mình là Tây Ban Nha, Hà Lan và
Pháp. Anh chiếm Ireland, Gibralta, 13 thuộc địa Châu Mỹ, Canada,
một số đảo vùng Caribée, Tây Phi, Châu Úc, Âún độ...Với hệ
thống thuộc địa rộng lớn này, giai cấp tư sản Anh có một nguồn dự trữ dồi dào về tư bản. Các
thuộc địa được dùng làm căn cứ quân sự và là nơi giai cấp
tư sản Anh vơ vét, bóc lột các nguồn tài nguyên thiên nhiên để
phục vụ cho kinh tế TBCN của họ.
Buôn bán nô lệ: cũng là
một nguồn tích lũy nguyên thủy quan trọng của Anh. Sự phát
triển của kinh tế đồn điền ở miền Nam nước Mỹ làm cho nhu
cầu nô lệ ngày càng tăng, giai cấp tư sản Anh thu nhiều lợi
nhuận từ việc buôn bán này. Trong số 15 triệu nô lệ đem bán
ở Mỹ thì Anh là nước bán nhiều nhất. Tiền lời thường từ
100 % đến 300%.
Sự phát triển của
ngoại thương Anh cũng là một trong những yếu tố thúc đẩy kinh
tế TBCN phát triển. Thông qua việc buôn bán mang tính chất tước
đoạt, giai cấp tư sản Anh thu được một nguồn nguyên liệu
dồi dào và rẻ mạt. Một điểm đặc biệt của Anh thế kỷ
XVII-XVIII là nền thương
nghiệp tam giác, nền thương mại ấy đã đem lại một món lời
đặc biệt cao cho thương nhân Anh.
2.
Cuộc cách mạng trong lĩnh vực nông nghiệp.
Ðây là một tiền đề
quan trọng của cách mạng công nghiệp; mà nội dung là việc tước
đoạt ruộng đất của nông dân. Việc rào đất cướp ruộng đã
chuẩn bị sức lao động cần thiết cho nền sản xuất tư bản
chủ nghĩa (nông dân bị tước đoạt, mất tư liệu lao động,
trở thành công nhân) và tạo thị trường cho công nghiệp. Tình
trạng tước đoạt ruộng đất đã dẫn đến sự phát triển
của những trang trại tư bản chủ nghĩa. Nền kinh tế nông
nghiệp tư bản chủ nghĩa cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp,
một phần lương thực cho thành thị và các khu công nghiệp; đồng
thời thị trường công nghiệp cũng được mở rộng.
Những thành tựu mà nền
nông nghiệp Anh đạt được là bằng sự bóc lột nặng nề công
nhân nông nghiệp và sự tước đoạt tàn nhẫn đối với nông dân:
phần lớn nông dân tự canh trở thành cố nông, một số di cư đến
các thành thị hoặc các thuộc địa, nông dân bị phá sản dần
dần trở thành quần chúng cơ bản của giai cấp vô sản, nhờ đó
mà sức lao động ở Anh được tích lũy nhiều hơn nơi nào hết
(ba triệu người).
Trong tác phẩm "The
First Industrial Revolution" (NXB Cambridge 1969, trang 49), tác giả
Phyllis Deane cho rằng cuộc cách mạng trong lĩnh vực nông nghiệp đóng
một vai trò khá lớn trong quá trình tích lũy tư bản ở Anh và là
một trong những tiền đề của CMCN. Nó đã tách rời nông dân
khỏi tư liệu sản xuất và tạo ra một đội ngũ công nhân trong
các cơ sở công nghiệp, chuyển chế độ ruộng đất phong kiến
sang trang trại TBCN và mở rộng thị trường trong nước, nó đã
mở rộng đất đai và gia tăng sản lượng nông phẩm. Những đặc
điểm này phát triển trong một thời gian dài qua nhiều thời kì
ở những vùng khác nhau trong nền nông nghiệp Anh.
3.
Cách mạng chính trị thành công ở Anh là một trong những cuộc cách
mạng tư sản sớm nhất đã đánh đổ chế độ
phong kiến ở Anh mở đường cho chủ nghĩa tư bản phát triển. Chính
chế độ chính trị mới này là lực lượng tích cực, xúc tiến
việc thủ tiêu những quan hệ kinh tế cũ còn lại, và
củng cố phát triển nền kinh tế tư bản chủ nghĩa.
Giai cấp tư sản Anh ra sức thực hiện
nhiều biện pháp để thúc đẩy nhanh sự phát triển công nghiệp
và thương nghiệp: chế độ thuế khóa đã mang tính chất tư sản
điển hình hơn, độc quyền mua bán các loại hàng hóa của nhà
vua bị thủ tiêu; chỉ có nghị viện mới có quyền định thuế.
Người ta ban hành những biện pháp tích cực nhằm làm cho việc buôn
bán dễ dàng, cải tiến việc vận chuyễn hàng hóa, làm cho sự liên
hệ giữa các thành phố và trung tâm buôn bán được thuận lợi.
Năm 1638, Anh bắt đầu có bưu trạm, bưu chính dùng để chuyển
tiền, đẩy nhanh sự giao lưu tiền tệ. Việc xây dựng đường
sắt được khuyến khích để phát triển nhanh việc chuyên chở,
liên lạc.
Ngoài những tiền đề nêu
trên, Anh còn có điều kiện thuận lợi để tiến hành cách mạng
công nghiệp như: thương nghiệp sớm phát triển, vị trí giao thông
thuận tiện, là vị trí địa lý trung tâm thời bấy giờ. Trong công
trường thủ công đã có những cải tiến kỹ thuật và sự phân
công lao động.
?-
Vì sao CMCN nổ ra sớm ở Anh ?
II. NỘI DUNG CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP |
Cách mạng công nghiệp thực chất là một
cuộc cách mạng kỹ thuật, thay thế lao động thủ công bằng lao
động máy móc, xây dựng cơ sở vật chất cho nền sản xuất tư
bản chủ nghĩa, đưa chủ nghĩa tư bản từ giai đoạn công trường
thủ công lên giai đoạn đại công nghiệp cơ khí, bảo đảm sự
toàn thắng của chủ nghĩa tư bản đối với nền sản xuất
nhỏ. Nội dung của cách mạng công nghiệp là phát minh ra máy móc.
1.
Những phát minh lớn trong các
ngành công nghiệp.
1.1.
Công nghiệp nhẹ: Việc cải tiến kinh tế
ở Anh bắt đầu từ công nghiệp nhẹ,û
một ngành ít đòi hỏi vốn và thu lời nhanh. Cải tiến đầu tiên
được thực hiện trong ngành dệt bông, một ngành tương đối
mới, chưa có nhiều xưởng thủ công và những luật lệ hạn
chế.
Có thể kể những phát
minh của:
- John Kay về con thoi bay
(1733).
-J. Hagreaves về máy quay
sợi (1767).
- Edmond Cartwright
về máy dệt (1785).
-Richard Arkwright về máy kéo
sợi chạy bằng sức nước (1769)
Từ ngành dệt bông,
việc phát minh máy móc, cải tiến kỹ thuật lan sang các ngành khác:
len, tơ tằm, đăng ten...
1.
2. Ngành luyện kim:
Những cải tiến về kĩ
thuật trong công nghiệp nhẹ đặt ra một vấn đề lớn cho nền
kinh tế là phải sản xuất nhiều máy móc. Do đó, cần phải phát
triển ngành luyện kim và cơ khí.
Năm 1735, Abraham Darby đã
phát minh ra phương pháp luyện kim mới: nấu than cốc từ than đá
để luyện gang.
Năm 1784, Henry Cort xây
lò luyện gang sử dụng nguyên liệu khóang sản để sản xuất
gang thép. Người ta xây dựng những lò cao gấp 50 lò cũ để
luyện sắt và đơn giản hóa việc nấu chảy quặng bằng cách dùng
luồng khí nóng chảïy. Những phát minh này làm khả năng sản
xuất đồ kim loại tăng lên và kích thích sự phát triển của công
nghiệp khai mỏ.
1.3.
Công nghiệp động lực:
Sau những phát minh trên, sức nước được
xem là động lực chủ yếu trong những máy lớn. Năm 1769, dựa trên
một số lí thuyết, James Watt đã phát minh ra nguyên tắc máy hơi nước,
và đến năm 1784 thì áp dụng vào các công xưởng một cách hoàn
thiện.
1.4.
Giao thông vận tải:
Máy hơi nước cung
cấp động lực cho cả ngành giao thông vận tải. Tàu thủy và tàu
hỏa được chế tạo dựa trên nguyên tắc máy hơi nước. Năm
1814, Stephenson chế tạo ra một đầu
máy kéo 8 toa, tốc độ 6km/h. Năm 1825, đường xe lửa đầu tiên
được khánh thành. Tàu thủy chạy bằng hơi nước của Anh được
hạ thủy lần đầu vào năm 1811. (Ở Mĩ, Fulton cho hạ thủy
chiếc tàu chạy bằng máy hơi nước đầu tiên ở Hudson vào năm
1807).Từ đó, công nghiệp đóng tàu của Anh phát triển mạnh. Ngoài
ra, hệ thống kênh đào của Anh cũng được chú ý xây dựng, tạo
điều kiện cho việc vận chuyển hàng hóa được dễ dàng.
III. HỆ QUẢ |
1.
Kinh tế:
Cuộc cách mạng công
nghiệp đã đưa đến sự thay đổi lớn trong lĩnh vực sản xuất
kinh tế ở Anh. Do sản xuất bằng máy móc, số lượng công nhân tăng
lên, chất lượng và giá trị sản phẩm tăng lên, giá thành sản
phẩm hạ, điều này phản ánh sự tăng tiến của năng suất lao
động và sự tiến bộ của lực lượng sản xuất. Anh trở thành
cường quốc công nghiệp lớn nhất châu Âu thời bấy giờ.
Sự phát triển của công nghiệp làm biến
đổi sâu sắc bản đồ địa lý của Anh. Trước đây, phần lớn
trung tâm công nghiệp và các vùng đông dân tập trung ở miền Nam,
nhưng sau CMCN một số vùng công nghiệp mới được xây dựng ở
miền Bắc, nhiều thành phố mới phát triển nhanh chóng, dân cư tăng
nhanh. Liverpool, Manchester, Birmingham là những trung tâm công nghiệp và
là những thành phố phát triển ở Anh.
2.
Xã hội.
Một trong những
hệ quả quan trọng nhất của cách mạng công nghiệp Anh là sự
thay đổi căn bản trong cấu trúc giai cấp của dân cư Anh: Tư
sản và vô sản trở thành hai giai cấp cơ bản trong xã hội. Trong
tác phẩm Tình cảnh giai cấp công nhân Anh, Engels viết: "Lịch
sử của giai cấp công nhân bắt đầu
ở Anh từ nửa sau thế kỷ XVIII với sự phát minh ra máy hơi
nước và việc chế biến bông".
Với việc sử dụng máy móc một cách
rộng rãi, công nhân bị bóc lột thậm tệ, trở nên phụ thuộc vào
máy móc. Khi những công xưởng đầu tiên xuất hiện, lao động đàn
bà và trẻ em thay thế cho lao động nam giới, họ bị đối xử tàn
tệ và bị bóc lột tàn nhẫn, lương công nhân nữ và trẻ em
rất thấp. Ngày làm việc bị kéo dài, điều kiện lao động tồi
tệ, điều kiện sinh hoạt thiếu thốn. Vì vậy, ngay từ lúc mới
ra đời, giai cấp công nhân Anh đã đứng lên đấu tranh nhưng do
ý thức chính trị còn non kém nên những cuộc đấu tranh ban đầu
của họ mang tính tự phát thể hiện qua phong trào đập phá máy móc.
Phong trào này phát triển và lan rộng từ những năm 70 của thế
kỉ XVIII đến những năm đầu thế kỉ XIX. Phải trải qua một
thời gian dài đấu tranh, giai cấp công nhân mới nhận thức được
nguyên nhân của sự cùng khổ của họ là do sự bóc lột của
giai cấp tư sản, từ đó phong trào công nhân có những chuyển
biến rõ rệt.
?-
Nêu lên sự thay đổi về kinh tế và xã hội Anh sau CMCN ?