Index Next Home


CHƯƠNG 1CÁC CUỘC CÁCH MẠNG TƯ SẢN TRONG BUỔI ÐẦU THỜI CẬN ÐẠI

BÀI MỞ ĐẦU :  CÁCH MẠNG TƯ SẢN HÀ LAN

  1. TÌNH HÌNH XỨ NETHERLANDS VÀO THẾ KỶ XV-XVI

  2. CÁCH MẠNG BÙNG NỔ

  3. TÍNH CHẤT VÀ Ý NGHĨA LỊCH SỬ

BÀI 1 :  CÁCH MẠNG TƯ SẢN ANH

  1. NHỮNG TIỀN ĐỀ CỦA CÁCH MẠNG

  2. DIỂN BIẾN CỦA CÁCH MẠNG

  3. Ý NGHĨA LỊCH SỬ

BÀI 2 :  CHIẾN TRANH GIÀNH ĐỘC LẬP CỦA CÁC BANG THUỘC ĐỊA ANH Ở BẮC MỸ

  1. TÌNH HÌNH CÁC BANG THUỘC ĐỊA TRƯỚC CÁCH MẠNG

  2. DIỂN BIẾN CỦA CHIẾN TRANH

  3. ĐẤU TRANH GIAI CẤP SAU CHIẾN TRANH

  4. TÍNH CHẤT VÀ Ý NGHĨA LỊCH SỬ


Từ khóa: công trường thủ công, rào đất cướp ruộng, quí tộc mới, kinh tế trại chủ, chế độ nô lệ đồn điền, cách mạng tư sản.

Mục đích: qua các bài trong chương I, giáo viên giúp sinh viên hiểu rõ việc thủ tiêu chế độ phong kiến thông qua một số cuộc cách mạng tư sản ở châu Âu và Bắc Mỹ trong buổi đầu thời cận đại. Những cuộc cách mạng này tạo điều kiện thuận lợi cho CNTB phát triển. Thông qua nội dung các cuộc cách mạng tư sản, giáo viên giúp sinh viên hiểu rõ khái niệm CMTS, tính chất chung của các cuộc cách mạng tư sản và đặc điểm riêng của từng cuộc cách mạng. Cũng qua các cuộc CMTS, giáo viên giúp cho sinh viên hiểu vai trò của quần chúng nhân dân trong các cuộc cách mạng. 

Yêu cầu: Sinh viên cần nắm kĩ:

-Nguyên nhân sâu xa và nguyên nhân trực tiếp của từng cuộc cách mạng.

-Những mốc chính, những sự kiện lịch sử cơ bản trong từng giai đoạn phát triển của mỗi cuộc cách mạng.

-Khái niệm cách mạng tư sản: nội hàm và ngoại diên của từng cuộc cách mạng.         

Bài mở đầuCÁCH MẠNG TƯ SẢN HÀ LAN

TOP

Hà Lan, một lãnh thổ nằm trên bờ biển bắc Âu là vùng hạ lưu của 3 con sông Escault, Meuse, Rhin. Lãnh thổ Hà Lan xưa kia bao gồm cả phần đất nước Bỉ ngày nay. Ðến năm 1831, Bỉ mới tách khỏi Hà Lan. Cách mạng tư sản đầu tiên trên thế giới nổ ra ở Hà Lan, mở đầu cho thời kỳ cận đại của lịch sử thế giới.

I. TÌNH HÌNH XỨ  NETHERLANDS VÀO THẾ KỶ XV- XVI

TOP

1. Kinh tế:

1.1. Công- thương nghiệp: thời trung đại, Netherlands là vùng kinh tế công thương nghiệp phát triển ở châu Âu. Từ thế kỷ XIII-XIV, nghề len dạ ở miền Nam Netherlands nổi tiếng không những về lãnh vực kỹ thuật mà cả về qui mô sản xuất. 9/10 số lượng lông cừu xuất khẩu từ Anh được nhập vào Netherlands.

Cùng với len dạ, nghề dệt bông, vải gai, dệt thảm, làm đồ da, đồ kim loại, đóng thuyền cũng phát triển mạnh.

Trong lãnh vực thương nghiệp, ngoại thương có những bước phát triển đáng kể. Netherlands đã buôn bán với các nước Anh, Nga, Tây Ban Nha và những thuộc địa của những nước này ở nam Mỹ. Các trung tâm mậu dịch và tài chính quan trọng của Netherlands lúc bấy giờ là Amsterdam, Brabant, Antwerpen..., trong đó Antwerpen là một thành phố thương nghiệp và tín dụng có tính chất quốc tế. Antwerpen có một bến cảng có thể đậu một lúc 2500 thuyền buôn đến từ các nơi trên thế giới .

Trên cơ sở phát triển công thương nghiệp, quan hệ phong kiến theo kiểu phường hội dần tan rã, và đồng thời với quá trình đó là sự hình thành một mối quan hệ mới, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Công trường thủ công ở Hà Lan phát triển mạnh. Hà Lan trở thành quê hương của công trường thủ công. Ðến nửa đầu thế kỷ XVI, Netherlands trở thành một nước tư bản phát triển có nhiều thành phố với mật độ dân số 3 triệu người.

1.2. Nông nghiệp: ở một số vùng phía bắc và nam của Hà Lan như Flandre, Brabant, Zéland... đã xuất hiện tình trạng các lãnh chúa phong kiến đem ruộng đất cho thuê hoặc kinh doanh theo kiểu tư bản chủ nghĩa. Các thị dân giàu có, các trại chủ mua ruộng đất của quí tộc, thuê người làm hoặc đầu tư vào việc đắp đê, biến những vùng đất trồng trọt thành các bãi cỏ để chăn nuôi súc vật nhằm cung cấp cho thị trường. Nhiều đầm lầy bị tháo nước để biến thành những nông trường chăn nuôi bò sữa.

Tóm lại, đến thế kỷ XVI, nền kinh tế Netherlands đã có những bước phát triển nhất định và quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đã xâm nhập vào các lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp của đất nước. Trong quá trình phát triển ấy, Netherlands đã hình thành hai trung tâm kinh tế là Amsterdam ở miền bắc và Antwerpen ở miền nam. Sự phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa ở miền Bắc tỏ ra thuận lợi hơn ở miền Nam. Trong khi miền Bắc mở rộng kinh tế với nước ngoài và nông thôn thì bị lôi cuốn vào kinh tế hàng hóa,  thì ở miền Nam kinh tế lại  lệ thuộc vào Tây Ban Nha và quan hệ phong kiến vẫn còn đậm nét trong nông nghiệp. Vì vậy, phía nam của Netherlands dần  phát triển chậm lại.

2. Sự thống trị của Tây Ban Nha

Thời trung đại, lãnh thổ Netherlands bị chia thành một số lãnh địa phong kiến, một số thuộc Pháp, một số thuộc Ðức. Cuối thế kỷ XV, Netherlands trở thành lãnh thổ của dòng Habsburg. Lúc Charles Quint còn thống trị thì Netherlands vẫn còn vị trí nhất định, nhưng khi con ông ta là Philippe II cai trị  thì Netherlands được xem như một lãnh địa phụ thuộc chặt chẽ vào Tây Ban Nha. Mọi quyền hành trong nước đều nằm trong tay viên toàn quyền Tây Ban Nha là Marguerite và viên phụ chính là Hồng y Giáo chủ Granvella. Chúng đã thi hành một chính sách cai trị hết sức hà khắc.

Trên lãnh vực tôn giáo, Tây Ban Nha đã thi hành một chính sách đàn áp tôn giáo khốc liệt, đặc biệt là tân giáo. Những học thuyết của Luther, Calvin đều bị cấm phổ biến, những người theo tân giáo đều bị truy lùng. Chính quyền Tây Ban Nha đã lập ra tòa án tôn giáo ở Netherlands để xét xử các tín đồ tân giáo. Tuy chính quyền ban hành các sắc lệnh cấm đạo và những cuộc hành hình ngày càng nhiều, nhưng số người theo tân giáo ngày vẫn  đông.

Trên lĩnh vực kinh tế, Tây Ban Nha thi hành chính sách thuế khóa hết sức nặng nề. Năm 1560, Philippe II tăng thuế xuất khẩu lông cừu của Tây Ban Nha  làm cho số lượng lông cừu nhập vào Netherlands hàng năm giảm 40%. Ngoài ra vua Tây Ban Nha  không cho  phép Netherlands quan hệ buôn bán với các thuộc địa của Tây Ban Nha ở Châu Mỹ và cản trở sự buôn bán giữa Netherlands và Anh.

Sự nô dịch về chính trị, sự đàn áp về tôn giáo và sự kìm hãm về kinh tế đã làm cho các tầng lớp trong xã hội Netherlands đều bất mãn với chế độ cai trị của Tây Ban Nha. Ngoài ra, trong xã hội Netherlands còn tồn tại mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất T.B.C.N với chế độ phong kiến. Do vậy, cuộc cách mạng Netherlands bùng nổ là nhằm giải quyết hai mâu thuẫn trên, trong đó mâu thuẫn thứ nhất là nguyên nhân trực tiếp thúc đẩy cuộc đấu tranh sớm bùng nổ, còn mâu thuẫn thứ hai là yếu tố quyết định tính chất của cuộc đấu tranh cách mạng ấy.

Những nét chính trong tình hình kinh tế và chính trị ở Netherland?

II. CÁCH MẠNG BÙNG NỔ

TOP

Phong trào cách mạng ở Netherlands bùng nổ nhằm giải quyết mâu thuẫn dân tộc với Tây Ban Nha, đồng thời giải quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất tư bản chủ nghĩa với quan hệ sản xuất phong kiến.

Cách mạng khởi đầu bằng các cuộc đấu tranh của quần chúng nhân dân bao gồm nông dân, bình dân thành thị và tư sản chống lại ách thống trị của chính quyền Tây Ban Nha. Trong cuộc cách mạng nầy, liên minh Calvin giáo của giai cấp tư sản đóng vai trò quan trọng.

Cách mạng trải qua 2 giai đoạn:

1. Giai đoạn 1: 1566-1572: đấu tranh diễn ra dưới hình thức đấu tranh tôn giáo.

Vì mâu thuẫn với chính quyền thực dân nên trong giai đoạn đầu, cuộc cách mạng tư sản Netherlands đã lôi cuốn được một bộ phận của tầng lớp quí tộc phong kiến đứng về phía nhân dân chống lại chính quyền Tây Ban Nha. Năm 1562, liên minh quí tộc bao gồm bá tước Egmont, hoàng thân VinHem dOrange và đô đốc Hornes. Họat động của liên minh quí tộc giới hạn trong những cuộc đấu tranh hợp pháp nên kết quả không hữu hiệu. Những yêu sách mà liên minh quí tộc đệ trình lên chính quyền như: đòi hủy bỏ sắc lệnh trấn áp dị giáo, tôn trọng những quyền lợi của nhân dân Netherlands... không giải quyết. Quân đội Tây Ban Nha vẫn chiếm đóng Netherlands và sự thống trị, nô dịch của Tây Ban Nha đối với Netherlands vẫîn tiếp tục.

Nhận thấy sự đấu tranh hợp pháp  của một số quí tộc không đem lại kết quả hữu hiệu, ngày 11-8-1566 nhân dân miền nam đã nổi dậy khởi nghĩa tấn công vào giáo hội Thiên chúa của chính quyền Tây Ban Nha. Quần chúng kéo nhau từng đoàn tấn công các nhà thờ thiên chúa, và cho đến cuối năm 1566, hàng ngàn nhà thờ bị đập phá. Phong trào lan rộng ra miền bắc đã thu hút 12 trong số 17 tỉnh của Netherlands vào cuộc đấu tranh chống chính quyền Tây Ban Nha. Chính quyền Tây Ban Nha e ngại và đã có những chính sách nhượng bộ: tòa án tôn giáo ngừng hoạt động, đạo Calvin được cho phép truyền bá. Trong khi chính quyền Tây Ban Nha nhượng bộ thì bộ phận quí tộc ở miền nam lại thỏa hiệp với chúng. Quí tộc phong kiến lo sợ trước sức mạnh của phong trào cách mạng của quần chúng nên đã từ bỏ quyền lợi dân tộc để bảo vệ quyền lợi giai cấp bằng cách phối hợp với quân chính phủ để đàn áp các cuộc khởi nghĩa  của nhân dân, còn đại diện của tư sản trong liên minh Calvin thì lại thỏa mãn với quyền lợi trên nên đứng ra dãn hòa, kêu gọi quần chúng ngưng bạo động. Chính quyền Tây Ban Nha lợi dụng tình hình không thống nhất trong phong trào, đã phái Elbe sang thi hành một chế độ thống trị hà khắc hơn. Albe đã lập ra Hội đồng tra xét bạo động để thanh trừng những người khởi nghĩa. Trong thời gian Albe cai trị đã có 8.000 người bị giết chết, trong đó có cả bá tước Egmont và de Horns. Ngoài ra, Albe còn ban hành một chính sách thuế hà khắc, đặc biệt sắc thuế 10% đánh vào những món hàng bán ra. Chế độ thuế này đã bóp nghẹt nền kinh tế của Hà Lan.

2. Giai đoạn 2: 1572 - 1684:

Trước sự thống trị tàn bạo của Albe, phong trào cách mạng của Netherlands phát triển thành hai khuynh hướng: khuynh hướng họat động chủ yếu dựa vào ngoại viện qua vai trò của VinHem dOrarge và khuynh hướng hoạt động du kích của quần chúng nhân dân qua việc tổ chức các đội  du kích với 2 tên gọi Ðội ăn mày trên rừng và Ðội ăn mày trên biển.

Hoạt động của phong trào cách mạng ở Netherlands trong giai đoạn này chủ yếu là những cuộc đấu tranh vũ trang giữa nhân dân Netherlands và chính quyền Tây Ban Nha. Hoạt động du kích của quần chúng nhân dân ngày càng mở rộng và giành được những thắng lợi to lớn, nhiều tỉnh ở miền bắc được giải phóng. Trước tình hình đó, một lần nữa tư sản và quí tộc lại liên minh với nhau để đoạt những thành quả của cách mạng qua việc ủng hộ VinHem dOrange lên nắm quyền hành chính tối cao và tổng chỉ huy quân đội. Năm 1576, một hội nghị ba cấp được triệu tập ở Ghente để thành lập một liên minh chống Tây Ban Nha. Tuy nhiên, trong hội nghị Ghente, do đa số đại biểu là quí tộc tăng lữ thiên chúa giáo và tư sản bảo thủ miền Nam nên hội nghị chưa giải quyết những vấn đề của cách mạng: không đề cập đến vấn đề thủ tiêu chế độ phong kiến ruộng đất và không nêu vấn đề độc lập dân tộc.

Sau Hội nghị,  các đại biểu miền Nam thành lập Ðồng minh Arras, tuyên bố phục tùng quyền thống trị của Tây Ban Nha. Hành động phản bội của bọn quí tộc miền Nam đã ảnh hưởng xấu đến tiến trình cách mạng.

Ðể đối phó với tình hình trên, các tỉnh miền Bắc thành lập Ðồng minh Utretch ngày 23.1.1579. "Ðồng minh Utretch" đã thành lập một "Liên hiệp các tỉnh", có một hệ thống tiền tệ, đo lường chung và một tổ chức quân sự, một chính sách đối ngoại thống nhất; có cơ quan quản lý chung là Hội Nghị ba cấp.

Năm 1581, trong một phiên họp của "Ðồng minh Utretch", Philippe II bị lên án là bạo chúa và bị phế truất. Tuy chưa chính thức tuyên bố, nhưng các tỉnh miền bắc Netherlands được tổ chức thành một nước Cộng hòa, được gọi bằng tên là Các tỉnh liên hiệp, về sau thay bằng tên của tỉnh lớn nhất và quan trọng nhất trong liên hiệp là Holland. Ðó là thành quả lớn lao của cuộc đấu tranh lâu dài của nhân dân Netherlands chống Tây Ban Nha.

Sau khi tuyên bố nền Cộng hòa, Hà Lan ký hiệp ước liên minh với Anh, Pháp để chống lại Tây Ban Nha. Cuộc đấu tranh còn kéo dài nhiều năm, gây tổn thất nặng nề cho Tây Ban Nha. Cuối cùng năm 1609, Tây Ban Nha phải ký với Hà Lan một hiệp ước hòa bình trong vòng 12 năm, thừa nhận sự độc lập của Hà Lan. Sau khi hiệp định hết hạn, chiến tranh lại tiếp tục. Mãi đến năm 1648, Tây Ban Nha mới chính thức thừa nhận nền độc lập của Các tỉnh liên hiệp.

Những mốc lớn trong cuộc đấu tranh của nhân dân Netherlands ?

III. TÍNH CHẤT VÀ Ý NGHĨA LỊCH SỬ

TOP

Cuộc đấu tranh của nhân dân Netherlands lúc đầu chỉ là những yêu cầu giảm nhẹ sự cai trị của chính quyền Tây Ban Nha, nhưng thái độ ngoan cố của chính quyền Tây Ban Nha làm cho nhân dân bất mãn. Họ đã đứng dậy tự vũ trang, chống lại sự thống trị của Tây Ban Nha một cách kiên quyết. Cuộc khởi nghĩa này biến thành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Cuộc đấu tranh này đồng thời còn là cuộc cách mạng tư sản vì nó đã lật đổ phong kiến nước ngoài, phát triển tinh thần dân tộc, dân chủ, mở đường cho chủ nghĩa tư bản phát triển.

Tuy nhiên cuộc cách mạng vẫn còn nhiều hạn chế: cách mạng chỉ thắng lợi ở tỉnh miền Bắc, các tỉnh miền nam vẫn nằm trong khuôn khổ của Netherlands thuộc Tây Ban Nha. Ngay sau khi thắng lợi, giai cấp tư sản miền bắc vẫn chưa trưởng thành. Chính quyền thực tế nằm trong tay tầng lớp trên của giai cấp tư sản gồm những chủ công trường thủ công, thương nhân và bọn cho vay nặng lãi liên kết với một bộ phận quí tộc để nắm chính quyền. Ở nông thôn, nông dân vẫn không có ruộng đất, quyền hành và sự bóc lột của địa chủ vẫn còn.

Tuy còn những hạn chế, nhưng khởi nghĩa ở Netherlands vẫn có một ý nghĩa quan trọng. Ðó là cuộc cách mạng tư sản đầu tiên trên thế giới, báo hiệu cho một phương thức sản xuất mới được thiết lập trên thế giới. Nó là mốc mở đầu cho lịch sử cận đại thế giới. Nhờ cách mạng tư sản mà đến thế kỷ XVII, Hà Lan trở thành nước tư bản chủ nghĩa tiên tiến nhất trên thế giới.

- Kết quả và ý nghĩa của CM Hà Lan?

Bài  1 :  CÁCH MẠNG TƯ SẢN ANH

TOP

Thế kỷ XVII, ở Anh nền kinh tế tư bản chủ nghĩa phát triển mạnh trong các ngành nông nghiệp, công nghiệp, thương nghiêp.  Sự phát triển này bị chế độ phong kiến kìm hãm, do đó, một cuộc  cách mạng tư sản đã bùng nỗ để lật đổ quan hệ sản xuất lạc hậu, mở đường cho lực lượng sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển. Cách mạng Anh là cuộc CMTS thứ hai trên thế giới sau CM Hà Lan, nhưng có ý nghĩa quan trọng đối với quá trình hình thành CNTB trên phạm vi toàn châu Âu.

I. NHỮNG TIỀN ÐỀ CỦA CÁCH MẠNG

TOP

1. Sự phát triển của kinh tế TBCN trong nông nghiệp và công thương nghiệp:

1.1. Nông nghiệp:

Ðặc điểm lớn nhất của nền nông nghiệp Anh là hình thái sản xuất tư bản chủ nghĩa xâm nhập rất sớm trong nông thôn Anh. Những biến đổi to lớn trong nông thôn Anh đã diễn ra vào thế kỉ XV-XVI. Do sự phát triển của công nghiệp len dạ, nhu cầu về lông cừu ngày một  tăng , nghề nuôi cừu đặc biệt có lợi cho nên một số địa chủ đã khoanh những ruộng đất của mình và công xã thành một hàng rào chung, biến những ruộng đất bị khoanh thành những đồng cỏ chăn nuôi cừu để tự mình kinh doanh hoặc cho chủ nuôi cừu thuê. Ðây là hiện tượng rào đất cướp ruộng (Inclosure) của bọn địa chủ Anh. Kết quả là nông dân bị đuổi đi hàng đoàn, bị tước đoạt ruộng đất, trở thành những người không nhà cửa, phiêu bạt khắp nơi. Hiện tượng rào đất cướp ruộng cũng làm nảy sinh ở Anh một tầng lớp quí tộc mới, đó là những quí tộc phong kiến đã tư sản hóa qua những hoạt động kinh doanh của họ.

Như vậy nền kinh tế nông nghiệp  phong kiến ở Anh chuyển biến thành kinh tế tư bản chủ nghĩa thông qua bạo lực đối với nông dân, đây là phương thức tích lũy nguyên thủy của chủ nghĩa tư bản trong buổi đầu của chủ nghĩa tư bản.

1.2. Công thương nghiệp.

Từ thế kỷ XVI, các ngành công nghiệp ở Anh phát triển mạnh, đặc biệt là ngành len, dạ. Việc sản xuất len, dạ mang tính chất tư bản chủ nghĩa thể hiện ở sự phát triển của các CTTC. Giữa thế kỷ XVI, số lượng len bán ra ngoài chiếm 80% hàng xuất khẩu của Anh. Anh trở thành nước cung cấp  len cho các thị trường bên ngoài (Hà Lan, Pháp, Ðức, Ý...).

Ngoài ra, các ngành công nghiệp khác cũng phát triển như dệt vải, bông, giấy, tơ lụa, thủy tinh....

Trong công nghiệp nặng: ngành khai thác mỏ đạt những thành tựu đáng kể: thế kỷ XVII, Anh sản xuất 4/5 sản lượng than đá châu Âu.Ngoài ra, các ngành khai quặng sắt, đồng, chì, kẽm... tăng từ 6 - 8 lần.

Thương nghiệp phát triển mạnh, đặc biệt là ngoại thương. Thương nhân Anh đi khắp nơi buôn bán, gây ảnh hưởng lớn từ Ðại Tây Dương đến châu Phi, từ châu Á... châu Mỹ. Trong ngoại thương, thương nhân Anh thu được một số lời khổng lồ nhờ việc buôn bán nô lệ.. Trung tâm mậu dịch và tài chính lớn của Anh là khu City. Nhiều thành phố lớn mọc lên, làm thay đổi bộ mặt nước Anh.

Như vậy, trước cách mạng nền kinh tế tư bản chủ nghĩa đã phát triển, nhưng những luật lệ của chế độ phường hội, chính quyền chuyên chế, và sự bóc lột phong kiến đối với nông dân là những yếu tố ngăn trở sự phát triển ấy. Yêu cầu xã hội là đánh đổ chế độ phong kiến lạc hậu, tạo điều kiện thuận lợi cho chủ nghĩa tư bản phát triển.

- Phân tích những tiền đề của CM Anh. Từ đó rút ra nguyên nhân sâu xa và nguyên nhân trực tiếp dẫn đến cách mạng.

2. Chế độ chính trị và tình hình xã hội.

2.1.Chế độ chính trị:trước cách mạng Anh theo chính thể quân chủ chuyên chế, ngưòi đại diện cho chêa đọ phong kiến lúc bấy giờ là Charles I.

2.2. Sự phân hóa giai cấp trong xã hội: do sự phát triển của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, đến thế kỷ XVII, xã hội Anh phân hóa thành những giai cấp sau:

-Giai cấp tư sản: đại diện cho PTSX mới tiến bộ. Giai cấp tư sản bị phân hóa thành những tầng lớp có quyền lợi khác nhau: (thương nhân lớn - trung - nhỏ, những chủ CTTC lớn- nhỏ)  Nhìn chung, giai cấp tư sản có thế lực kinh tế  nhưng không có thế lực về chính trị, nên muốn giành lấy địa vị thống trị về chính trị.

-Do sự phát triển của chủ nghĩa tư bản trong nông nghiệp, một số địa chủ kinh doanh theo lối tư bản chủ nghĩa, từ đó xuất hiện trong xã hội Anh tầng lớp quí tộc mới . Quí tộc mới liên minh chặt chẽ với tư sản để chống lại chế độ chuyên chế.          

- Nông dân: bị phân hóa thành những tầng lớp khác nhau: nông dân tự do, tá điền, cố nông. Nông dân Anh lao động cực khổ và phải đóng góp nhiều nghĩa vụ phong kiến nặng nề, vì vậy nông dân là lực lượng chủ yếu trong cuộc đấu tranh chống phong kiến.

-Ðối lập với tầng lớp quí tộc mới làì quí tộc phong kiến với nguồn sinh sống chính là địa tô và lương bổng chức vụ. Chúng dựa vào nhà vua để duy trì sự bóc lột của mình. Quí tộc phong kiến ra sức bảo vệ trật tự phong kiếïn, vì vậy họ trở thành đối tượng của cách mạng.

Mâu thuẫn chủ yếu trong xã hội Anh là mâu thuẫn giữa quí tộc phong kiến với giai cấp tư sản và quí tộc mới. Mâu thuẫn này thể hiện mâu thuẫn giữa LLSXTBCN  tiến bộ và QHSX phong kiến lỗi thời.

2.2. Vấn đề tôn giáo.

Trước cách mạng, Anh có hai tôn giáo lớn:        

-Anh giáo: dựa trên lí thuyết của đạo Cơ đốc, nhưng về tổ chức thì tách khỏi giáo hội La Mã. Vua Anh nắm cả thế quyền lẫn thần quyền. Anh giáo là công cụ thống trị tinh thần của giai cấp phong kiến.

-Thanh giáo là tôn giáo cải cách, dựa trên giáo lý của Calvin, chống lại giáo hội Anh, giai cấp tư sản và quí tộc mới đang lên dựa vào tôn giáo này làm vũ khí đấu tranh.

3. Tình thế cách mạng.

Giữa thế kỷ XVII, Anh đặt dưới sự cai trị của Vương triều Stuart mà người đại diện là James I, rồi đến Charles I. Chế độ quân chủ chuyên chế này chuyển từ thời kỳ được sự ủng hộ của quốc hội dưới triều Tudor sang thời kỳ xung đột công khai với quốc hội.

Quốc hội được triệu tập liên tiếp trong những năm 1625, 1626, 1628 vì vua cần tiền. Trong những năm này; đã xảy ra sự xung đột giữa nhà vua và  quốc hội vì quốc hội   không chấp nhận những đề nghị của nhà vua. Vua đóng cửa QH, và cai trị trong 11 năm không cần QH. Năm 1640 vì cần tiền để tiến hành chiến tranh với Scotland, vua triệu tập QH , nhưng quốc hội không thỏa mãn những đề nghị của nhà vua, mâu thuẫn giữa nhà vua và quốc hội tiếp tục diễn ra, sự xung đột giữa phe nhà vua và phe quốc hội làm cho tình thế cách mạng chín muồi, cách mạng tất yếu sẽ bùng nổ.

II. DIỄN BIẾN CỦA CÁCH MẠNG

TOP

Chia làm 2 giai đoạn:

Giai đoạn I: 1642 - 1660

Giai đoạn II: 1688 - 1689

Giữa hai giai đoạn có một thời gian cách mạng bị gián đoạn gọi là thời kỳ phục hồi vương triều Stuart.

1. Giai đoạn I: 1642 - 1660

1.1 Nội chiến lần I: 1642-1646.

Nội chiến bùng nổ do sự ngoan cố của giai cấp thống trị cũ: chính nhà vua là kẻ gây ra nội chiến. Nội chiến cũng là một cuộc đấu tranh quyết liệt và phức tạp giữa chủ nghĩa tư bản đang phát triển và chế độ phong kiến chuyên chế đang tan rã.

Buổi đầu, phe nhà vua chiếm ưu thê,ú chủ động tấn công và thắng liên tiếp, chiếm 3/ 4 đất đai. Phe quốc hội thất bại vì quân đội còn yếu về chiến thuật, một phần vì tư tưởng bảo thủ của các cấp chỉ huy. Phái Trưởng Lão đang chi phối quốc hội,  chủ trương chế độ quân chủ lập hiến nên ngập ngừng trong hành động, muốn thỏa hiệp với nhà vua. Giữa lúc đó, một lực lượng mới xuất hiện, đó là quân đội của Oliver Cromwell, một người thuộc phái Ðộc lập, đại diện cho quí tộc mới, kiên quyết chống phong kiến.

Quân đội của Cromwell có tính kỷ luật cao và lòng dũng cảm. Ngoài bộ binh, Cromwell còn chú trọng tổ chức kị binh. Quân đội mới đã góp phần lớn vào các trận chiến chống nhà vua, đặc biệt là trận Naseby ngày 14-6-1645. Phe nhà vua bị đánh bại, Charles I phải trốn lên Scotland, nhưng bị người Scotland giữ lại và nộp cho quốc hội  Anh. Ðầu 1646, nội chiến kết thúc.

Sau khi đánh bại nhà vua,  Quốc hội nắm quyền chính trị tối cao. Qúi tộc mới và tư sản nắm chính quyền đã thông qua quốc hội để thi hành chính sách ruộng đất chống lại nông dân. Ruộng đất của địa chủ phong kiến chuyển hàng loạt sang tay giai cấp tư sản và qúi tộc mới, song sự bóc lột phong kiến đối với nông dân vẫn không bị thủ tiêu (nông dân vẫn phải nộp thuế 1/ 10, thuế rượu, muối, vải). Vì thế, khi nội chiến kết thúc, tư tưởng bất mãn lan tràn trong nhân dân cả nước, đó là nguồn gốc sinh ra phái San bằng (Nivelers) mà John Lilburne là lãnh tụ. Phái San bằng trở thành một phái chính trị độc lập, đại diện cho quần chúng nhân dân bắt đầu tham gia đấu tranh chính trị, đề ra những yêu cầu phản ảnh lợi ích của giai cấp tiểu tư sản thành thị, nông thôn... Ðặc biệt, họ đã soạn ra một cương lĩnh chính trị với tên gọi Thỏa ước của nhân dân đòi giải tán "quốc hội dài", đòi phổ thông đầu phiếu, tự do tín ngưỡng, đánh thuế tài sản, thủ tiêu mọi đặc quyền có tính chất phân biệt đẳng cấp... Phái San bằng đã góp phần đẩy cách mạng tiến tới chỗ tiêu diệt chế độ quân chủ.

Ðại tư sản và quí tộc mới lớp trên không muốn cách mạng tiếp tục phát triển, lo ngại trước tinh thần cách mạng của quần chúng nên định giải tán quốc hội. Vì vậy, trước áp lực của phái San Bằng và quần chúng nhân dân, Cromwell đã lập Hội đồng toàn quân để đối phó lại: Quân đội trong hội đồng toàn quân đòi khai trừ các lãnh tụ phái Trưởng Lão, giải tán những lực lượng vũ trang do quốc hội tổ chức, nhưng quốc hội cự tuyệt và chống lại. Dưới áp lực của phái San Bằng, các chỉ huy của phái Ðộc Lập cho quân tiến vào thủ đô Luân đôn, các lãnh tụ phái Trưởng Lão bỏ trốn, một số theo phái Ðộc Lập. Phái Ðộc Lập chiếm ưu thế trong quốc hội.

1.2. Nội chiến lần hai.(1648.)

Trong khi nội bộ quốc hội và quân đội mâu thuẫn và xung đột với nhau, thì mùa xuân năm 1648, bọn bảo hoàng nổi dậy ở một số nơi. Trước tình hình này, với sự chủ động của phái San bằng, phái Ðộc Lập  liên minh với phái San bằng đẩy lùi quân phản động, nội chiến lần II kết thúc.(1648)

Dưới áp lực của quân đội và nhân dân, những người chủ trương nền Cộng hòa trong phái Ðộc Lâp đã đem Charles I ra xử tử ngày 30 - 1 - 1649. Anh trở thành  nước Cộng hòa.

1.2.1. Chế độ Cộng Hòa:

Việc xử tử Charles I đánh dấu sự sụp đổ của chế độ quân chủ phong kiến và sự thắng lợi của cách mạng. Ngày 19-5-1649, nền Cộng hòa được chính thức tuyên bố.

-Ðối nội: thực chất chế độ cộng hòa là nền chuyên chính tư sản trong tay các tướng lĩnh phái Ðộc lập dưới danh nghĩa nghị viện,  vì những sĩ quan trong quân đội nắm những chức vụ quan trọng. Quyền lập pháp thuộc hạ viện, quyền hành pháp thuộc một nội  các do nghị viện bầu ra trong thời hạn 1 năm.

Chính phủ Cộng hòa ra lệnh bán đất đai của Giáo hội và những quí tộc bảo hoàng, cho người mua hưởng những đặc quyền phong kiến cũ: phần lớn tài sản chuyển vào tay quí tộc mới và giai cấp tư sản. Chế độ bóc lột phong kiến đối với nông dân vẫn giữ lại cũng như hàng loạt những nghĩa vụ phong kiến khác. Trong tình hình đó, phái Ðào đất (Diggers) xuất hiện: biểu hiện cuộc đấu tranh vì ruộng đất của nông dân. Ðại biểu cho phái Ðào đất là W.Stelley, một tiểu thương bị bần cùng hóa. Những người Ðào đất ü chủ trương chống chế độ tư hữu và khôi phục chế độ công hữu. Phái Ðào đất muốn xây dựng một xã hội cộng sản nhưng  chưa có điều kiện để thực hiện nên việc làm của họ có tính chất không tưởng. Tuy nhiên, phong trào này là đỉnh cao của phong trào nông dân trong cách mạng Anh. Cuối 1651, chính phủ phái quân đội đến đàn áp và dập tắt phong trào.

Ngoài ra, Cromwell còn đàn áp cả phái San bằng vì họ đòi thực hiện những yêu sách trong bản Thỏa ước nhân dân. Tiêu diệt phái San bằng và  Ðào đất,  chính Cromwell đã  chuẩn bị để tiêu diệt chế độ cộng hòa, dọn đường cho việc thiết lập chế độ độc tài cá nhân của mình.

-Ðối ngoại: Từ khi nắm chính quyền, Cromwell đã chuẩn bị những cuộc viễn    chinh xâm lược Ireland và Scotland. Những cuộc viễn chinh này ngay từ đầu đã có tính chất phản động nhằm bóc lột, đàn áp tàn khốc Ireland.

Giai cấp Tư sản Anh còn muốn đoạt bá quyền mậu dịch trên biển nên gây chiến tranh với Hà Lan. Chiến tranh kết thúc có lợi cho Anh, Anh buộc Hà Lan phải công nhận đạo luật hàng hải do Anh đặt ra.

1.2.2. Chế độ Bảo hộ.

Ðàn áp được Ireland và Scotland, chiến thắng Hà Lan, giai cấp tư sản Anh nhận thấy càng phải có một chính quyền mạnh để tiếp tục xâm lược các nước, chống những phần tử phản động còn sót lại, và chống cả những yêu cầu dân chủ của nhân dân. Chúng muốn thiết lập một chế độ độc tài mạnh mẽ.: Cromwell ra mặt công kích và  dùng quân đội giải tán quốc hội.Ngày 12 - 12 - 1653, Cromwell  được tôn làm Bảo hộ công và từ 1655 trở đi, ông cai trị hoàn toàn không có quốc hội.

Thực chất của chế độ bảo hộ là nền độc tài quân sự của cá nhân Cromwell, bảo đảm quyền lợi cho bọn có của, chống lại quần chúng nhân dân.

2. Sự phục hồi Vương triều Stuart 1660 - 1688.

Ngày 3-9-1658, Oliver Cromwell chết, trao quyền cho con là Richard Cromwell, một người bất tài, không có uy tín nên không được phục tùng, cuối cùng bị buộc phải từ chức.

Cuối năm 1659 đầu 1660, tình hình Luân đôn rối loạn, dân chúng nổi dậy, bọn có của hoảng sợ, yêu cầu thiết lập một chính quyền ổn định hơn.  Monk, một tướng có quan hệ với triều đình Stuart, được bọn địa chủ và tư sản ủng hộ, đã  thương lượng với Charles II,  (con của Charles I)  để phục hồi chế độ phong kiến. Vương triều Stuart được phục hồi. Sau khi nắm chính quyền, Charles II khủng bố những người tham gia cách mạng,û cai trị hết sức phản động.

3. Giai đoạn 2:  cuộc chính biến 1688 - 1689.

Năm 1685 Charles II chết, em là James II lên thay, tiếp tục củng cố thế lực phong kiến. Y dùng những thủ đoạn trả thù với những địch thủ ở nghị viện, bí mật nhận viện trợ của Pháp, thu thuế mà không triệu tâp quốc hội... Giai cấp tư sản và quí tộc mới thất vọng với vương triều Stuart .Họ thấy cần phải thay đổi giai cấp thống trị khác để phục vụ lợi ích giai cấp họ.

Vì thế, giai cấp tư sản và quí tộc mới tìm cách dựa vào VinHem dOrange (Quốc trưởng Hà Lan) để chống với James II, lập nên một chính quyền mới. Nhận lời mời của quốc hội Anh, VinHem mang quân sang Anh tiến vào London. Ngày 13.2.1689, Vinhem lên ngôi vua Anh. Ðó là cuộc chính biến 1688-1689. Cuộc chính biến này không có nhân dân tham gia, không đẩy cách mạng tiến lên, nhưng nó có ý nghĩa ở chỗ xác định lại cuộc cách mạng tư sản Anh, củng cố quyền lợi của giai cấp tư sản và qúi tộc mới, thủ tiêu chế độ quân chủ chuyên chế, thiết lập chế độ quân chủ lập hiến.

-  Ý nghĩa lịch sử của các năm 1649, 1689 trong tiến trình của CM?

III. Ý NGHĨA LỊCH SỬ

TOP

Cuộc cách mạng này là cuộc cách mạng tư sản vì nó lật đổ quan hệ sản xuất phong kiến, kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất tư bản chủ nghĩa, mở đường cho chủ nghĩa tư bản  phát triển ở Anh.

Cách mạng được tiến hành dưới sự lãnh đạo của một liên minh tư sản và  quí tộc mới, nông dân là động lực cơ bản của cách mạng.Tuy nhiên, trong quá trình diễn biến của cách mạng, giai cấp thống trị đã phản bội  đồng minh của mình, không giải quyết vấn đề ruộng đất cho nông dân .Vì thế cách mạng còn mang tính chất bảo thủ. Một đặc điểm nữa là cuộc đấu tranh cách mạng diễn ra dưới hình thức tôn giáo, vì các phe phái tập trung trong hai tôn giáo lớn là Anh giáo và Thanh giáo.

-- Vì sao CM Anh mang tính bảo thủ ?

-- Những đặc điểm của CM Anh?

Bài 2 :  CHIẾN TRANH GIÀNH  ÐỘC LẬP CỦA CÁC BANG THUỘC ÐỊA ANH Ở BẮC MỸ (1775 - 1783)
I. TÌNH HÌNH CÁC BANG THUỘC ÐỊA TRƯỚC CÁCH MẠNG

TOP

1. Sự phát triển của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa ở Bắc Mỹ.

1.1. Công- thương nghiệp:

Giữa thế kỷ XVIII, 13 bang thuộc địa ở Bắc Mỹ đã có một nền kinh tế tư bản chủ nghĩa tương đối phát triển. Mặc dù bị chính quyền kìm hãm, nền kinh tế tư bản chủ nghĩa ở Mỹ phát triển nhanh nhờ những điều kiện thuận lợi: tài nguyên thiên nhiên phong phú và lao động di dân hăng say.

Thủ công nghiệp phát triển tự do, không bị chế độ phường hội hạn chế, số công trừơng thủ công ngày càng tăng, những công xưởng tư bản chủ nghĩa bắt đầu xuất hiện, lao động máy móc thay thế cho lao động thủ công. Các bang đã tự túc được nông phẩm và có thể xuất khẩu một số lượng lớn ngũ cốc, da thú, bơ, sữa, thuốc lá ... Công nghiệp đóng tàu khá phát triển nhờ nguồn lợi thiên nhiên về gỗ (30% tàu Anh đóng ở Bắc Mỹ). Các ngành công nghiệp khai mỏ, luyện sắt, thép... và những ngành công nghiệp khác như: dệt vải, dệt len, thuộc da... cũng phát triển.

Thương nghiệp cũng phát triển, mang lại nhiều nguồn lợi to lớn cho giai cấp tư sản Bắc Mỹ, đặc biệt trong lãnh vực ngoại thương: trong vòng 50 năm kể từ 1700-1750, giá trị hàng xuất khẩu tăng 5 lần (từ 265.783 lên 1.044.591. bảng).

Sự lớn mạnh của nền kinh tế thuộc địa làm Anh lo sợ, tìm mọi cách để kìm hãm. Giai cấp tư sản non trẻ của thuộc địa đang phát triển ngày càng tăng cường thế lực của mình và bước đầu và trở  thành một lực lượng đối kháng với tư sản chính quốc.

1.2. Kinh tế nông nghiệp:

Vào thế kỉ XVII-XVIII, Anh xem Bắc Mỹ là vùng nông nghiệp phụ thuộc vào chính quốc, nhiệm vụ của nước Mỹ là cung cấp nguyên liệu và lương thực cho chính quốc. Trong nông nghiệp có hai vùng kinh tế phát triển đó là:

Miền Bắc và tây bắc: kinh tế trại chủ giữ vị trí chủ yếu. Những trại chủ là những nông dân  khai khẩn dựa trên sức lao động của chính họ, không bị chế độ phong kiến ràng buộc; để có thêm thu nhập, họ làm các nghề thủ công.

Ở miền Nam: chế độ nô lệ đồn điền của chủ nô chiếm địa vị thống trị. Kinh tế đồn điền của miền Nam dựa vào lao động của nô lệ và gắn liền với chủ nghĩa tư bản. Sự bóc lột nô lệ ở các đồn điền miền Nam không khác gì thời cổ đại: nô lệ làm việc 18-19 giờ/ ngày; không được phép bỏ đồn điền và không được tụ tập. Họ bị đặt ra ngoài vòng pháp luật và không có quyền phản kháng. Hàng triệu nô lệ đã chết trên đất Hiệp chủng quốc để làm giàu cho các chủ đồn điền.

2. Chính sách cai trị của Anh.

Thực dân Anh chia các thuộc địa Bắc Mỹ thành 2 loại: loại I gồm 5 bang được hưởng quyền tự trị rộng rãi, loại II là 8 bang còn lại do chính phủ Anh trực tiếp cai trị. Ở mỗi bang, thống đốc nắm quyền chỉ huy quân đội, chọn nhân viên hành chính. Quyền bầu cử rất hạn chế: chỉ có những thương nhân, địa chủ mới có quyền bầu cử, nô lệ da đen, da trắng và người Indians không có quyền bầu cử.

Giai cấp thống trị xem thuộc địa là nguồn cung cấp nguyên liệu và thị trường cho họ, nên tìm mọi cách để buộc kinh tế thuộc địa lệ thuộc vào kinh tế chính quốc. Nhưng sự phát triển kinh tế mạnh mẽ ở Bắc Mỹ làm Anh lo ngại, vì thế Anh đưa ra một loạt biện pháp nhằm hạn chế sự kinh doanh của giai cấp tư sản Bắc Mỹ. Những chính sách này làm hại đến quyền lợi của chủ nô, tư sản, và ngay cả nhân dân thuộc địa, vì vậy họ phản kháng lại chính quyền Anh và đó cũng là nguyên nhân sâu xa dẫn đến chiến tranh giành độc lập. Nói một cách khác, nguyên nhân của chiến tranh là do sự xung đột giữa giai cấp thống trị Anh với tư sản Bắc Mỹ và các tầng lớp nhân dân thuộc địa.

3. Nguyên nhân trực tiếp của cuộc chiến tranh.

Với sự phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa ở Bắc Mỹ, giai cấp thống trị Anh tìm cách kìm hãm nó bằng việc ban hành một số những đạo luật khắt khe, buộc nhân dân Bắc Mỹ phải thi hành. Năm 1699 cấm xuất cảng len từ đất Mỹ, chỉ cho phép bán tại nơi sản xuất. Năm 1776, nghị viện Anh ra  quyết định buộc phải đưa sang hải cảng Anh những hàng hóa từ thuộc địa muốn xuất cảng sang các nước khác, nghiêm cấm việc buôn bán đường... Ngoài ra, năm 1763 vua Anh còn ban hành đạo luật cấm khai khẩn đất đai ở phía tây dãy Alleghenies, điều này đụng chạm đến quyền lợi của những người Indians và dân tự do.

Ðến 1765, chính quyền Anh lại ban bố luật thuế tem: mọi giấy tờ phải đến cơ quan trước bạ để chịu thuế. Việc ban bố đạo luật này coi như vi phạm đến chính quyền các bang, vì các bang đòi phải có sự đồng ý của nhân dân thuộc địa. Thực chất của vấn đề thuế tem là quyền hạn của thuộc địa. Một đại hội bàn về thuế tem được triệu tập tại New york. Ðại hội yêu cầu quốc hội Anh bãi bỏ những đạo luật vừa ban hành đồng thời phát động một phong trào tẩy chay hàng Anh. Trước sự phản kháng của nhân dân thuộc địa, quốc hội Anh buộc phải bãi bỏ thuế tem.

Tháng 10. 1773, ba chiếc tàu chở chè của công ty Ðông Âún vào cảng Boston, nhân dân Boston cải trang làm người Indians, tấn công 3 chiếc tàu và ném các thùng chè xuống biển (trị giá 100.000 bảng). Chính phủ Anh ra lệnh đóng cửa cảng Boston, không cho tàu buôn vào. Tướng Gages được cử sang làm tổng tư lệnh quân đội Anh ở Bắc Mỹ.

Tháng 4. 1774 chính quyền Anh lại ban hành những đạo luật khác gây nên một phong trào chống Anh rộng rãi trong quần chúng và thúc đẩy chiến tranh bùng nổ.

?- Nguyên nhân của CTGÐL của các thuộc địa Anh ở Bắc Mỹ ?

II. DIỄN BIẾN CỦA CHIẾN TRANH

TOP

1. Giai đoạn I: (1775 - 1777)

1.1. Ðại hội lục địa lần I: (1774)

Trước sự phát triển của những hoạt động cách mạng của nhân dân, những người lãnh đạo phong trào cách mạng ở Mỹ thấy cần có một  hội nghị để biểu lộ ý chí chung. Vì vậy họ triệu tập Hội nghị lục địa lần I ngày 5.9. 1774 ở Philadelphia. Trong hội nghị đã diễn ra sự đấu tranh giữa hai phái ôn hòa và cấp tiến. Ða số đại biểu vẫn chủ trương ôn hòa với chính quốc, cho nên về mặt chính trị, giai cấp tư sản chưa đi đến quan điểm dứt khoát,  còn về mặt kinh tế thì những biện pháp cứng rắn đều được thông qua. (Ðại biểu các bang nhất trí hành động tẩy chay hàng Anh trong tất cả các bang). Hội nghị đã gởi lên vua Anh một bản kiến nghị đòi xóa bỏ những đạo luật vô lý của chính quyền Anh, nhưng quốc hội Anh không đáp ứng môt yêu cầu nào của hội nghị. Tuy vậy, hội nghị lục địa lần I có một ý nghĩa lớn vì nó đã thống nhất các lực lượng đấu tranh chống lại chính quốc.

1.2. Ðại hội lục địa lần II. (1775)

Sau những cuộc giao tranh đầu tiên, sự phát triển của tình hình chính trị và quân sự cuối 1774 và 1775 đã đưa nhân dân Bắc Mỹ đến một giai đoạn mới: đấu tranh vũ trang. Nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của giai cấp tư sản đã đứng về một phía, chống lại lực lượng của Anh.

Giai cấp tư sản tuy có tư tưởng cách mạng, nhưng đa số vẫn chiến đấu với tinh thần tự do, họ sợ phong trào quần chúng và e ngại trước lực lượng của chính quốc. Trước tình hình đó, quần chúng nhân dân đòi phải tổ chức thống nhất các bang và hoạt động theo sự chỉ huy chung. Do đó, hội nghị lục địa lần II triệu tập ngày 10.5.1775 với mục đích giải quyết những vấn đề cụ thể của chiến tranh.

Trong đại hội lục địa II vẫn diễn ra sự đấu tranh giữa 2 phe, những người cách mạng triệt để đề ra những biện pháp kiên quyết nhưng không được sự ủng hộ.Những người phái hữu tuy chống Anh nhưng lại phản đối việc li khai với chính quyền và đề ra những biện pháp thỏa hiệp. Thái độ thiếu kiên quyết của dại hội là thái độ thiếu kiên quyết của những phần tử tư sản.Tuy nhiên, Ðại hội đã làm được một việc quan trọng là xây dựng được một lực lượng quân sự do Gcorge Washington chỉ huy.

1.3.Tuyên ngôn độc lập (1776 ) - Hiến pháp 1781.

Chính sách hiếu chiến của giới cầm quyền Anh và những thất bại quân sự khiến cho giai cấp tư sản ở Bắc Mỹ phải chuyển biến trong việc lãnh đạo cách mạng. Tư sản Bắc Mỹ phải  qua một chặng đường dài đấu tranh mới đi đến quan điểm đòi độc lập hoàn toàn.

Ðầu 1776, Thomas Paine đã ra một bản luận văn quân sự kêu gọi lật đổ nền thống trị của Anh, thành lập chế độ cộng hòa. Jefferson đã dựa vào bản luận văn quân sự để soạn thảo Tuyên ngôn độc lập, và ngày 4.7.1776 Tuyên ngôn độc lập được đại hôi lục địa thông qua. Trong thời gian từ tháng 6 đến tháng 7.1776, các bang lần lượt tuyên bố độc lập.

Bằng lời văn trang trọng, Tuyên ngôn nêu rõ: Mọi người đều sinh ra bình đẳng. Tạo hóa đã ban cho họ những quyền bất khả xâm phạm, trong đó có quyền sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc... Bản Tuyên ngôn còn nêu rằng chỉ nhân dân mới có quyền thiết lập chính quyền, đứng lên đấu tranh khi quyền lợi bị chà đạp. Bản Tuyên ngôn còn lên án vua Anh và tuyên bố quyền độc lập của các quốc gia, quyền gia nhập liên minh, buôn bán, kí kết hiệp ước...

Ðây là một văn kiện có tính chất tiến bộ thời bấy giờ, nó thể hiện tính chất dân chủ, tự do, nêu cao nguyên tắc chủ quyền của nhân dân.

? Tư tưởng cơ bản của TNÐL?

1.4. Thắng lợi ban đầu của cách mạng.

Quân đội của Bắc Mỹ được thiết lập do George Washington chỉ huy, trong buổi ban đầu đã chiến đấu với những điều kiện vô cùng gian khổ: quân nhu, súng ống, đạn dược đều thiếu thốn. Trong lúc đó, một số thương nhân Boston lại cung cấp vũ khí và lương thực cho quân đội Anh. Tuy vậy, quân Anh vẫn không giành được thắng lợi mặc dù có trang bị vật chất đầy đủ vì phải đương đầu với một kẻ thù ẩn hiện khắp nơi: nhân dân Bắc Mỹ áp dụng chiến thuật phân tán, du kích. Các tầng lớp nhân dân lao động Mỹ cũng triệt để ủng hộ kháng chiến, dân nô lệ da đen đã chiến đấu dũng cảm vì họ bảo vệ lợi ích của họ. Sau những đợt tấn công quyết liệt của quân Anh, quân Bắc Mỹ đã đẩy lùi được và thắng lớn ở trận Sarratoga vào giữa 1777.Chiến thắng này đã làm thay đổi cục diện chiến tranh.

2. Giai đoạn 2 của chiến tranh (1777 - 1781).

Ðặc điểm chung: thời kỳ này có sự tham gia của những lực lượng bên ngoài.Về đối nội: mang tính dân chủ hơn trước.

Trong những năm đầu sau trận Sarratoga, tình hình chiến tranh vẫn chưa có những thay đổi lớn. Quân đội Bắc Mỹ gặp nhiều khó khăn về vũ khí và trang bị, phải chiến đấu trong những điều kiện thiếu thốn. Ðến tháng 11.1781, quân đội Bắc Mỹ mới chiến thắng rực rỡ ở Yorktown.  Chiến thắng này mang một ý nghĩa quyết định: nó cổ vũ cho quần chúng nhân đấu tranh mạnh mẽ hơn, đồng thời một phong trào phản chiến ở Anh nổ ra. Trước tình hình đó, Anh đồng ý thương lượng với Bắc Mỹ. Hiệp ước Versailles được ký tháng 9.1783, Anh phải  công nhận nền độc lập của các bang thuộc địa. Trước đó ít lâu, Ðại hội lục địa đã thông qua một hiến pháp cho Bắc Mỹ, ngày 1. 3. 1781 HP có hiệu lực: quyền hạn của chính quyền trung ương bị hạn chế, các bang có quyền rộng rãi: qui định thuế má, ngân sách, tổ chức, quân đội và hạm đội riêng...

III. ÐẤU TRANH GIAI CẤP SAU CHIẾN TRANH

TOP

1. Cuộc khởi nghĩa của dân nghèo 1786 - 1789.

Sau chiến tranh, nước Cộng hòa trẻ tuổi lâm vào tình trạng khó khăn: lạm phát, thuế khóa nặng nề, giá sinh hoạt tăng vọt, ngân sách nghèo nàn, kinh tế bị tàn phá; môt số tư sản và địa chủ giàu lên nhờ chiến tranh, trong khi đó đời sống binh lính và nhân dân càng bấp bênh.Trước tình hình như vậy, nhân dân lao động tiếp tục đấu tranh đòi quyền sống, ruộng đất và tự do dân chủ. Năm 1785, có những cuộc khởi nghĩa của dân nghèo thành thị, nông dân. Ðến năm 1786, phong trào lan rộng.

Một cuộc khởi nghĩa lớn lúc bấy giờ là khởi nghĩa của những người nghèo ở bang Massachusettes, có công nhân, trại chủ, binh lính giải ngũ tham gia. Người lãnh đạo là Daniel Shace, một trại chủ nghèo nguyên là  đại úy trong quân đội. Cuộc khởi nghĩa kéo dài từ tháng 9/ 1786 đến tháng 2/ 1787. Những người khởi nghĩa  đã đề ra một chương trình hành động: phân phối ruộng đất công bằng, thủ tiêu nợ nần, xử án công bằng.... Cuộc khởi nghĩa thu hút dân nghèo và các bang lân cận. Giai cấp tư sản dùng mọi lực lượng để đàn áp và dập tắt phong trào, Shace bị xử tử.

2. Hiến pháp 1787.

Sau chiến tranh, nhiều yếu tố về kinh tế và chính trị đã thúc đẩy giai cấp tư sản phải củng cố chính quyền trung ương . Từ 25.5 -17. 9.1787, đại hội đại biểu các bang được triệu tập ở Philadelphia để sửa đổi hiến pháp và tháng 9.1789, hiến pháp mới được thông qua với một số sửa đổi có hiệu lực đến ngày nay.

Theo hiến pháp mới, chính quyền trung ương được tăng cường, nhưng các bang vẫn giữ quyền tự trị rộng rãi trong các vấn đề có tính chất địa phương.

Hành pháp: Tổng thống đứng đầu chính phủ, nhiệm kỳ 4 năm, quyền hạn Tổng thống rất rộng.

Lập pháp: thuộc về Quốc hội. Quốc hội gồm hai viện :        

-Thượng viện: đại diện các bang, nhiệm kỳ 6 năm, cứ 2 năm phải bầu lại 1/3 nghị sĩ.  

-Hạ viện: đại diện nhân dân liên bang, nhiệm kỳ 2 năm.

Tư pháp: giao cho Tòa án tối cao liên bang, những thành viên trong tòa án tối cao do Tổng thống cử và giữ chức vụ suốt đời.

Hiến pháp còn những mặt tiêu cực: chỉ những người có tài sản mới được bầu cử, nô lệ và người Indians không có quyền bầu cử; chế độ nô lệ vẫn còn duy trì. Một hạn chế khác là muốn bầu cử phải có thời hạn cư trú nhất định trong một địa phương nào đó.

Hiến pháp 1787 thực chất là sự thỏa hiệp giữa hai tầng lớp tư sản miền Bắc và chủ nô miền Nam, tư sản miền Bắc phải nhân nhượng phần nào với chủ nô miền Nam để chống lại phong trào dân chủ của nhân dân. Ðây là một hiến pháp của giai cấp tư sản. Trong chế độ mới này, chính quyền nằm trong tay tư sản công thương nghiệp miền Bắc và chủ nô miền Nam.

IV. TÍNH CHẤT VÀ Ý NGHĨA LỊCH SỬ

TOP

Nhân dân các thuộc địa đã đấu tranh giành độc lập trong 6 năm, thu nhiều thắng lợi. Kết quả lớn nhất là thủ tiêu nền thống trị của Anh, giành độc lập hoàn toàn và thiết lập một quốc gia tư sản ở Bắc Mỹ với 13 bang: New Hamsphire, Massachussetts, Connecticut, Rhodes Island, NewYork, Pensylvania, New Jersey, Maryland, Delaware, Virginia, Carolina North, Carolina South, Georgia.      

Ðây là một cuộc chiến tranh giành độc lập, nhưng cuộc chiến tranh này không chỉ giải quyết nhiệm vụ giải phóng dân tộc mà còn giải quyết những nhiệm vụ kinh tế và xã hội của một cuộc cách mạng tư sản, nó chống lại chế độ phong kiến do bọn thực dân Anh thiết lập và chống lại những biểu hiện khác của chủ nghĩa thực dân đang ngăn trở sự phát triển của công, thương nghiệp tư bản chủ nghĩa. Nó giải phóng Mỹ khỏi chủ nghĩa thưc dân  Anh, đưa tư sản và  chủ nô lên nắm chính quyền, mở đường cho kinh tế tư bản chủ nghĩa Mỹ phát triển mạnh.

Cuộc cách mạng do giai cấp tư sản lãnh đạo, quần chúng nhân dân là lực lượng quyết định, bao gồm nô lệ, công nhân, nông dân... Nhưng khi cách mạng thành công, giai cấp tư sản đã không đáp ứng những yêu cầu của nhân dân: không giải quyết ruộng đất cho họ, chế độ nô lệ vẫn còn duy trì...

Cách mạng tư sản ở Mỹ có một ý nghĩa lịch sử lớn lao: thiết lập một quốc gia tư sản độc lập, đem lại sự tiến bộ cho dân tộc, mở ra con đường phát triển tư bản chủ nghĩa trong nền kinh tế. Ðồng thời, phong trào giải phóng dân tộc của nhân dân Bắc Mỹ đã kích thích và ảnh hưởng đến phong trào đấu tranh của nhân dân các nước khác.

? Vì sao Lê Nin nói " Cuộc CTGÐL thực sự là một cuộc CM" ?


Top Index Next Home