_______________________________________________________________________________________________
Dao
động là một chuyển động được lặp lại nhiều lần theo
thời gian; Ví dụ như tim hoạt động như một cái bơm vừa hút đẩy
máu đi liên tục đến các cơ quan theo một chu kỳ nhất định.
Hoạt động của tim là một chuỗi của những dao động. Quá trình
hoạt động của phổi để trao đổi khí giữa máu và không khí cũng
là một qúa trình dao động.
Ðặc
điểm của dao động:
*
Hệ phải có một vị trí cân bằng bền và hệ dao động qua lại
hai bên vị trí đó. Ðộ lệch cực đại của vật so với vị trí
cân bằng gọi là biên độ.
*
Khi hệ rời khỏi vị trí cân bằng bền, luôn luôn có một lực kéo
hệ về vị trí cân bằng bền gọi là lực hồi phục F=-kx với k
hệ số hồi phục, x là độ dời của hệ so với vị trí cân
bằng.
*
Hệ có quán tính cho nên khi chuyển đến vị trí cân bằng, do quán
tính, nó tiếp tục vượt qua vị trí cân bằng đó.
*
Chu kỳ của một dao động là thời gian để hệ thực hiện hoàn
chỉnh một dao động.
*
Dao động điều hòa: Khi chu kỳ của dao động là ổn định và biên
độ là không đổi ta có dao động điều hòa.
Ðể
đặc trưng cho tính tuần hòan của dao động, người ta còn dùng
khái niệm tần số. Tần số là một đại lượng có trị số
bằng tổng số dao động mà hệ thực hiện được trong một đơn
vị thời gian. Dễ dàng thấy rằng, tần số f liên hệ chu kỳ T
của dao động điều hòa theo biểu thức:
(2.1)
*
Có hai dạng dao động được xem gần như dao động điều hòa là
dao động của con lắc lò xo và dao động của con lắc dây (Con
lắc toán học).
Chúng
ta thiết lập phương trình dao động điều hòa của con lắc lò
xo, cụ thể là tìm sự phụ thuộc của độ dời x của con lắc lò
xo theo thời gian. Viết phương trình định luật 2 Newton đối với
quả cầu có độ cứng lò xo là k ta có:
(2.2)
Gia
tốc a của quả cầu cho bởi:
(2.3)
(2.4)
Vì
k và m đều dương nên ta có thể đặt:
(2.5)
khi
đó (2.4) thành:
(2.6)
Ðây
là một phương trình vi phân cấp hai thuần nhất, hệ số không đổi.
Theo giải tích, nghiệm của nó có dạng:
(2.7)
trong
đó A > 0 là biên độ và là pha ban đầu phụ thuộc vào các điều kiện ban đầu của hệ.
Chu kỳ được tính từ (2.5):
->
à
(2.8)
hay
theo (2.5) T0 = 2p
(2.9)
Dao
động là một dạng chuyển động cơ học, vì vậy năng lượng
dao động là cơ năng:
(2.10)
trong
đó và
lần lượt là động năng và thế năng của lò xo.
Ta
tính động năng của con lắc lò xo tại thời điểm t
theo (2.7)
=
(2.11)
Ðể
tính thế năng, ta tính công của lực hồi phục F trong chuyển
dời con lắc từ vị trí cân bằng đến vị trí có toạ độ x:
=
(2.12)
Công
bằng độ biến thiên thế năng
của con lắc lò xo từ vị trí cân bằng đến vị trí có toạ độ
x:
= -
trong
đó là thế năng tại O,
là thế năng tại vị trí có toạ độ
x.
Nếu
ta quy ước thế năng của con lắc lò xo tại O bằng khôngĠ, thì
=
(2.13)
hay
(2.14)
Thay
và từ (2.11) và (2.14) vào (1.10) ta
được:
nhưng ,
do đó vậy:
(2.15)
Cơ năng trong quá trình dao động điều hòa phụ thuộc vào
biện độ và tần số của dao động. Như vậy trong quá trình dao động điều hòa, năng
lượng được bảo toàn. Ðiều này phù hợp với định luật
bảo toàn cơ năng, tuy là cơ năng bảo toàn, nhưng luôn có sự
chuyển hóa qua lại giữa động năng và thế năng.
Trong cơ thể chúng ta những dao động thực sự là những dao
động cưỡng bức, ví dụ dao động của tim được thực hiện do
sự co bóp liên tục của cơ tim; Khi tim ngừng co bóp cơ thể
ngừng hoạt đống. Dao động của hệ cưỡng bức khá phức tạp
vì đó là sự chồng chất của dao động riêng tắt dần dưới tác
dụng của nội lực và dao động cưỡng bức dưới tác dụng
của ngoại lực tuần hòan. Sau một thời gian đủ lớn dao động
tắt dần không còn nữa; khi đó dao động của hệ chỉ là dao động
cưỡng bức. Thực nghiệm cũng chứng tỏ rằng dao động cưỡng
bức có chu kỳ bằng chu kỳ của ngoại lực tuần hòan tác dụng.
Cộng hưởng
Khi tần số góc của lực tuần hòan bằng tần số dao động
riêng của hệ lúc đó biên độ dao động cưỡng bức đạt giá
trị cực đại, ta nói có hiện tượng cộng hưởng. Tần số góc
của lực tuần hòan được gọi là tần số cộng hưởng .
Cộng hưởng được sử dụng trong một số phương pháp
trị bệnh bằng cách dùng ngoại lực từ các máy kích thích tuần
hoàn (ví dụ như các dòng điện xoay chiều tần số cao) lên một
số bộ phận hoạt động kém hay bị tê liệt trên cơ thể.
Những dao động
cơ lan truyền trong môi trường vật chất (đàn hồi) được gọi
là sóng cơ. Ðặc điểm của quá trình lan truyền sóng cơ học
trong một môi trường vật chất là sự truyền sóng ứng với
những kích động nhỏ không kèm theo quá trình vận chuyển vật
chất trong môi trường. Người ta gọi ngoại vật gây kích động
là nguồn sóng, phương truyền của sóng là tia sóng, không gian mà
sóng truyền qua là trường sóng.
Người ta chia sóng cơ làm hai loại là sóng ngang và sóng
dọc. Sóng ngang là sóng mà phương dao động của các phần tử môi
trường vuông góc với tia sóng. Thí dụ: sóng truyền trên một
sợi dây đàn khi ta rung nhẹ một đầu (Hình2.1a). Sóng dọc là sóng
mà phương dao động của các phần tử của môi trường trùng
với tia sóng. Thí dụ: khi ta nén vài vòng của lò xo rồi bỏ tay
ra (Hình 2.1b). Hình ảnh những đoạn này truyền dọc theo lò xo chính
là sóng dọc. Âm thanh là một dạng sóng dọc. Sóng dọc truyền
được trong chất rắn cũng như trong các môi trường lỏng và khí.
Các
đặc trưng của sóng
a)
Vận tốc sóng
Vận tốc sóng là
quảng đường mà sóng truyền được sau một đơn vị thời gian.
Trong lý thuyết đàn hồi, người ta đã chứng minh được trong môi
trường đẳng hướng, vận tốc sóng dọc bằng:
hay
(2.16)
Trong
đó ,
và lần lượt là hệ số đàn hồi, suất đàn hồi
(suất Young) và khối lượng riêng của môi trường;
Vận
tốc sóng ngang được tính qua suất trượt G của môi trường theo
công thức:
(2.17)
b)
Chu kỳ và tần số
Chu
kỳ T và tần số f của sóng là chu kỳ và tần số của các
phần tử dao động của môi trường.
c)
Bước sóng
d) Năng lượng của sóng
Giả
sử xét một phần tử của môi trường đồng nhất và đẳng hướng,
có thể tích , nằm trên phương truyền sóng y. Nếu hàm sóng có
dạng thì năng lượng của sóng trong thể tích nhỏ
đó được
tính theo biểu thức:
(2.18)
Năng
lượng của sóng cũng có tính chất tuần hoàn theo thời gian và không
gian với chu kỳ T và bước sóng .
Mật
độ năng lượng sóng w0 là năng lượng của sóng đi qua một đơn
vị thể tích của môi trường. Từ (2.18) ta suy ra:
(2.19)
Ta
thấy mật độ năng lượng sóng biến thiên theo thời gian. Ta có
thể tính giá trị trung bình của nó trong một chu kỳ. Vì giá
trị trung bình củaĠtrong một chu kỳ bằng 1/2 nên theo (2.19) mật
độ trung bình của sóng bằng:
(2.20)
mật
độ năng lượng sóng trung bình chính là năng lượng dao động
của một đơn vị thể tích môi trường mà sóng đi qua. Ðôi khi
người ta còn dùng khái niệm cường độ sóng đó là năng lượng
sóng đi qua một đơn vị diện tích của môi trường:
(2.21)
Z
được gọi là âm trở của môi trường
(2.22)
Trong y học người ta dùng sóng âm (siêu âm) cho truyền qua
một số bộ phận của cơ
thể, vận tốc truyền của sóng âm trong các bộ phận đó cho ta
những thông tin quang trọng về khối lượng riêng về độ đồng
nhất. Ví dụ như cho siêu âm đi qua một mãnh xương,vận tốc
truyền sóng âm qua xương đó giúp ta biệt được hàm lượng Canxi
và sự phân bố Canxi trong mẫu xương đó.
Âm thanh là sóng cơ học có biên độ nhỏ mà thính giác
của con người có thể nhận biết được. Thí dụ: sóng âm phát
ra từ một nhánh âm thoa, một dây đàn, một mặt trống đang rung
động. Mỗi âm đơn có một tần số riêng.
Ðơn vị tần số là Hertz (viết tắt là Hz). Hertz là tần
số của một quá trình dao động âm mà cứ mỗi giây vật thực
hiện được một dao động. Dao động âm có tần số khoảng từ
20 - 20.000 Hz. Những dao động cơ có tần số dưới 20 Hz gọi là
hạ âm, trên 20.000 Hz gọi là siêu âm. Như vậy, sóng âm nghe được
có bước sóng từ 20m ( 2cm trong chân không.
f
< 20 Hz |
20
Hz < f < 20.000 Hz |
f
> 20000 Hz |
Hạ
âm |
Âm
(nghe được) |
Siêu
âm |
Về
phương diện vật lý, âm nghe được hay không nghe được không có
gì khác nhau về bản chất. Chúng chỉ khác nhau về phương diện tác
dụng sinh lý đối với màn nhỉ. Thực nghiệm chứng tỏ âm thanh
đi thành tia và nó cũng bị phản xạ, khúc xạ, nhiễu xạ và
hấp thụ như tia sáng. Vì vậy, ta có thể nghe được tiếng động
phản xạ từ vách đá, tiếng động bên ngoài đi vào trong một ngôi
nhà đóng kín cửa; Hai người cách nhau một bức tường có thể
trò chuyện với nhau dễ dàng.
Thực nghiệm xác nhận mọi vật rắn khi thực hiện những
va chạm nhỏ với các vật khác đều tạo ra âm thanh. Khi ta vỗ
tay, khi ta khảy dây đàn, khi chân ta đá vào một qủa bóng, tất
cả các trường hợp đó đều tạo ra những âm thanh xác định.
Vận
tốc truyền âm:
Sự
truyền âm trong một môi trường đàn hồi không phải là tức
thời; ta có thể nhận thấy ánh chớp trước khi nghe được
tiếng sấm. Thực nghiệm chứng tỏ trong một môi trường đồng
chất và đẳng hướng thì âm thanh truyền với vận tốc không đổi.
Vận tốc truyền âm thanh thay đổi khi âm thanh truyền qua các môi
trường khác nhau (chất rắn, chất lỏng hoặc chất khí).
@
Trong chất khí:
-
Vận tốc truyền âm không phụ thuộc vào áp suất khối khí.
-
Vận tốc tỉ lệ với với
là khối lượng riêng của chất khí.
Vận
tốc tỉ lệ với nhiệt độ, vì khi nhiệt độ tăng thì thể tích
của khối khí tăng, khối lượng riêng bị giảm. Ta có:
với a
= 1/273
(2.23)
v
là vận tốc truyền âm ở nhiệt
độ toC ; là vận tốc truyền âm ở
0oC.
Ðể
tính sự phụ thuộc chính xác của vận tốc vào nhiệt độ và
cả khối lượng riêng ta dùng công thức Laplace:
(2.24)
trong
đó P0 = 1,013.105 N/m2 là áp suất khí quyển,
khối lượng riêng
của chất khí, tính bằng kg/m3:; CP và CV là nhiệt dung riêng đẳng
áp và đẳng tích của không khí; v
là vận tốc của âm thanh trong chất khí ở nhiệt độ toC
@Trong
chất lỏng:
Người
ta thấy là vận tốc truyền âm truyền trong chất lỏng lớn hơn
nhiều so với khi truyền trong chất khí và không khác nhau nhiều
trong những môi trường chất lỏng khác nhau. Vận tốc đó vào
khoảng 1.400 -> 1.500 m/s lớn gấp 3 đến 4 lần vận tốc trong chất
khí.
@
Trong vật rắn:
Vận
tốc truyền âm trong vật rắn lớn gấp 10 -> 15 lần vận tốc
truyền âm trong không khí, tức là vào khoảng 3.000 đến 4.500 m/s.
Cường độ
của âm là một tính chất mà dựa vào đó ta có thể phân biệt
một âm mạnh hay yếu. Rõ ràng cường độ âm gắn liền với biên
độ và năng lượng của dao động âm. Ví dụ như ta đánh mạnh vào
dây đàn thì âm thanh phát ra sẽ to và dễ cảm nhận hơn là đánh
nhẹ vào nó.
Cường độ của âm là đại lượng
phụ thuộc vào khả năng cảm nhận âm thanh của con người mà ta
gọi là cảm giác âm. Cảm giác âm do những sự biến đổi áp
suất không khí ở gần lổ tai, những sự biến đổi ấy liên
quan đến năng lượng dao động
âm tiếp nhận bởi màng nhĩ trong một đơn vị thời gian. Như
vậy, cường độ âm biến đổi tỉ lệ với công suất rung tiếp
nhận bởi lổ tai. Công suất nầy được tính bằng đơn vị là
Juole/cm2s hay là W/cm2.
Lưu
ý là cường độ âm giãm dần theo khoảng cách từ nơi nhận âm
đến nguồn phát âm theo công thức:
Ġ
(2.25)
với
I là cường độ âm nơi quan sát cách nguồn phát có cường độ
âm là I0 một khoảng r; k là hệ số tỉ lệ có gía trị nhỏ hơn
1 đặc trưng cho sự hấp thụ sóng âm của môi trường.
Nếu âm thanh truyền qua môi trường hấp thụ quá mạnh, ta
phải dùng công thức :
(2.26)
Nhiều thực nghiệm xác nhận: Cảm giác âm thanh ở tai chúng
ta không chỉ phụ thuộc vào công suất rung tiếp nhận ở tai mà còn
phụ thuộc vào tần số của âm thanh.
Hình 2.4 diễn tả khả năng thu nhận âm thanh theo tần số và công suất rung của âm thanh được tai tiếp nhận. Cảm giác âm thanh mà tai ta nghe được nằm ở giữa đường biểu diễn. Ðường phía trên là giới hạn cực đại, nếu công suất rung nằm phía trên đường giới hạn cực đại âm thanh có khả năng làm hỏng màng nhỉ.
Ðường
phía dưới là giới hạn cực tiểu, nếu công suất rung nằm phía
dưới đường giới hạn cực tiểu,có nghĩa là âm thanh có độ
rung quá yếu (thầm thì) tai ta không cảm giác được. Khoảng tần
số ở giữa (từ 500 ( 100 Hz) là khu vực mà tai ta dễ cảm giác âm
thanh nhất. Các nhà sinh vật học giải thích điều này là do con
người giao tiếp với nhau bởi khoảng tần số đó, cũng là khu
vực tần số phát âm của loài người.
Giới hạn cực
tiểu nhỏ nhất của công suất rung nằm ngay tần số 1.000Hz. Ðó
là âm thanh mà tai ta dễ cảm nhận hơn cả.
Ta gọi nó là
giới hạn công suất rung mà tai còn nghe được
Qui ước ứng với một âm có công suất
thì cường độ
của nó .
Cường độ âm
I ứng với một công suất rung P khác
được tính theo công thức:
(Bel)
(2.27)
dB
(2.28)
Ở
đó đơn vị tính của cường độ âm là bel ( viết tắc là B) hay
decibel (dB) =ĠBel.
Giá trị lớn
nhất của công suất rung cũng nằm ở tần số 1.000Hz có giá tri là:
. Ðó là công suất rung giới hạn mà tai ta còn chịu được.
Ngoài giới hạn nầy màn nhỉ có nguy cơ bị rách.
Bây giờ dựa vào
công thức (2.25) ta hãy tính cường độ lớn nhất ứng với công
suất rung cực đại.
Vậy
cường độ âm cần phải cảnh giác đối với tai chúng ta có giá
trị là 130 dB.
Trong
các âm phát ra bởi các nhạc cụ, có âm thì trầm có âm thì
bổng (thảnh thoát và cao vút). Tính chất trầm bổng được đặc
trưng bằng cao độ của âm. Cao độ của âm tỉ lệ với tần
số của dao động âm.
Trong
âm nhạc người ta dùng một số âm có tần số nhất định để
tạo thành các bộ âm giai theo cách sau:
Trong
khoảng tần số từ 16Hz đến 20000Hz người ta chia làm 11 bộ âm
giai (Hình 2.5). Mỗi bộ âm giai gồm có 7 nốt nhạc (Do, Re, Mi, Fa,
Sol, La, Si ). Hai nốt nhạc kế cận có thể cách nhau hai bậc (2B)
hoặc một bậc (1B) như trường hợp hai nốt Mi và Fa hoặc Si và
Do.
Sự
chênh lệch về độ cao của một bậc được tính như sau:
Nếu
ta gọi f1, f2 là tần số của hai nốt kế tiếp nhau một bậc về
độ cao thì:
(f2 > f1)
(2.29)
hoặc
(2.30)
Nếu
f1 và f2 là tần số của hai nốt không kế tiếp và cách nhau k
bậc, ta có:
(f2 >
f1)
(2.31)
hoặc
(2.32)
Thông
thường người ta chọn một nốt nhạc làm chuẩn là La ở bộ 5
gọi tên là La5 có tần số là 435Hz để từ đó có thể tính
tần số của các nốt nhạc khác
Ví
dụ muốn tính tần số của nốt La4 ta sẽ tính số bậc từ La4
đến La5, đó là 12 bậc.
Vậy:
Vậy
Như
vậy từ một nốt ở bộ này sang cùng một nốt đó ở bộ âm
giai kế cao hơn thì tần số tăng lên gấp đôi, còn khi chuyển
sang cùng nốt đó ở bộ âm giai kế thấp hơn thì tần số của nó
giảm đi phân nửa.
Âm
Sắc
Các âm thanh phát ra từ các nhạc cụ khác nhau; giọng nói
của những người khác nhau nói chung là các âm thanh phức tạp, gây
cho ta những cảm giác âm thanh phong phú hơn hẳn những âm đơn (phát
ra từ âm thoa chẳng hạn). Sự khác nhau về các âm thanh nói trên
đặc trưng bằng âm sắc. Theo lý thuyết chuổi Taylor và thuyết đàn
hồi Helmholtz: có thể phân tích một âm phức tạp thành những âm
đơn giản mà tần số của chúng là bội số nguyên của một
tần số đơn nhỏ nhất. Các âm có tần số là bội số nguyên
của tần số đơn nhỏ nhất đựợc gọi chung là các hoạ âm.
Mỗi nhạc cụ phát ra một âm phức trong đó các hoạ âm của âm
đơn có biên độ xác định, khác nhau cho nên khi chúng tổng hợp
lại chúng gây nên hiệu ứng âm thanh trên màng nhỉ chúng ta khác
nhau làm cho chúng ta nhận biết bản sắc riêng biệt của mỗi
loại nhạc cụ.
Những nghiên cứu hiện đại khẳng định những dao động
âm khác nhau về tần số được tiếp nhận bằng những phần khác
nhau của màng nhỉ. Ðiều nầy thực hiện được là do những dao
động cộng hưởng của các sơi màng nhỉ đồng thời còn do sự
xuất hiện dao động ỡ limphô nội dịch và sự biến dạng đàn
hồi của những phần xác định của màng.
Hiệu ứng Doppler.
Sự
chuyển động tương đối của nguồn âm và của quan sát viên gây
ra sự biến đổi tần số của âm nhận được; Hiện tượng đó
được gọi là hiện tượng Doppler. Doppler tiến hành nhiều thí
nghiệm và nhận thấy, khi nguồn âm tiến lại gần quan sát viên,
tần số mà quan sát viên nhận được cao hơn tần số do nguồn âm
đã phát ra. Trường hợp nguồn âm đi ra xa quan sát viên, người
đó nhận được tần số thấp hơn tần số của nguồn phát.
Nếu
gọi u là vận tốc truyền âm trong không khí, f là tần số dao động
âm được phát ra từ máy phát, f là tần số dao động âm được
quan sát viên thu nhận khi mà quan sát viên đang chuyển động với
vận tốc v so với nguồn phát xem như đứng yên, công thức dịch
chuyển Doppler cho ta:
(2.33)
Dấu
- xảy ra khi quan sát viên tiến lại gần nguồn phát âm, Dấu +
xảy ra khi quan sát viên đi ra xa nguồn phát âm.
Vì
u là vận tốc của âm trong không khí gần bằng 330m/s và nguồn âm
chuyển động với vận tốc không lớn sao cho u > v
thì khi quan sát viên tiến lại gần nguồn phát âm:
(2.33a)
Nghiã
là tần số của quan sát viên nhận được cao hơn tần số nguồn
âm phát ra.
Khi
quan sát viên đi ra xa nguồn phát âm:
(2.33b)
Nghiã
là tần số của quan sát viên nhận được thấp hơn tần số
nguồn âm phát ra.
Hiệu
ứng Doppler còn xảy ra cả trong sóng ánh sáng.
Ðối với con người co quan phát âm (phát tiếng nói) cơ
bản nhất là thanh quản. Tiếng nói đối với con người là quan
trọng vì nó là hệ thống thông tin tín hiệu thứ hai hình thành
trong quá trình lao động sáng tạo và phát triển về cấu tạo cơ
thể con người, nó là công cụ thể hiện và truyền bá tư duy. Ðể
nghiên cứu cơ chế phát âm của các dây thanh quản, ta tách ra
khảo sát một số dây kế nhau trong thanh quản; chúng thường nằm
ở vị trí song song và ở điều kiện bình thường thì khép kín vào
nhau. Khi phát âm không khí được đẩy từ phổi lên thanh qủan
với một áp suất nhất định. Luồn khí đi qua khe hẹp của hai dây
âm thanh làm dây rung lên. Luồng thân kinh trung ương
chỉ huy độ căng của dây và do đó điều chỉnh tần số
dao động của dây. Tần số dao động phát ra tính theo công thức:
(2.34)
với
f là tần số âm thanh phát ra, L là chiều dài dây thanh qủan, F là
lực căng của dây, ( là khối lượng một đơn vị chiều dài.
Ðối với nam giới, chiều dài và khối lượng một đơn
vị chiều dài dây thanh qủan là khá lớn so với chiều dài và
khối lượng một đơn vị chiều dài dây thanh quản nữ giới vì
vậy tần số âm thanh nam phát ra thường trầm hơn là của phụ
nữ.
Tuy nhiên nhiều lý thuyết mới cho rằng tần số của tiếng
nói là do tần số kích của xung thần kinh từ luồn thần kinh
truyền đến hệ dây thanh quản. Luồn không khí từ phổi đi lên
chỉ có tác dụng cung cấp năng lượng cho dây dao động. Phân tích
cấu trúc nảo ta thấy có trung tâm phát ra các xung thấn kinh điều
khiển sự phát âm có nhiûp điệu ở vùng đồi thị của võ
nảo; trong khi trung tâm điều khiển không khí di chuyển lên thanh
qủan lại ở trung nảo. Khả năng của thanh qủan đáp ứng một kích
thích thần kinh tạo ra âm thanh là rất nhanh (thời trị vào
khoảng 10-9 s).
Ngày nay người ta thấy rõ hơn trong cấu tạo của dây âm
thanh là niêm mạc của nó rất loãng, lỏng lẻo và không dính
chắt vào tổ chức dưới đó. Thế nên một dao động có thể
xuất hiện ở từng bộ phận phía dưới, phía trên và ngay ở đầu
dây âm thanh.
Âm thanh do con người tạo ra còn chịu tác dụng của nhiều
yếu tố khác như của buồng cộng hưởng đó chính là hốc xương
mắt; của sự ma sát qua kẽ răng, ma sát giữa răng và lưỡi.
III.
CƠ CHẾ CỦA QÚA TRÌNH NGHE
|
Khi
sóng âm truyền đến tai ngoài, sự thay đổi áp suất do dao động
làm cho các phần tử của màng nhỉ dao động theo. Dao động đó
truyền đến cửa sổ bầu dục của tai giữa, thông qua hệ thống
xương con ở đó. Dao động của các phần tử ở cửa sổ bầu
dục tạo ra chuyển động ngoại dịch pêrilymphô chứa trong ốc
tai. Khi sóng âm có cường độ lớn có thể gây ra những chuyển
động xoáy ở ngoại dịch pêrilymphô đó.
Trong
quá trình lan truyền sóng âm, hệ thống xương con đóng một vai trò
rất quan trọng. Nó vừa có tác dụng khuếch đại áp lực âm
thanh vừa bảo vệ tai trong trước những âm có cường độ lớn.
Ðể khuếch đại được áp lực âm thanh, hệ xương con hoạt động như một đòn bẩy. Trên hình 2.6, ta thấy: tại cửa sổ bầu dục có lực tác dụng F2 và lực F1 tác dụng ở màng nhĩ. Cánh tay đòn ở hệ đòn bẩy này là
Ta
biết (2.35)
Ngoài
ra diện tích S2 của cửa sổ bầu dục nhỏ hơn 17 lần so với
diện tích S1 của màng nhĩ. Vì vậy áp lực âm thanh tác dụng lên
cửa sổ bầu dục sẽ lớn hơn 17 lần áp lực âm thanh tác dụng
lên màng nhĩ. Tổng hợp lại ta có áp lực âm thanh ở phía sau
hệ xương con (ở cửa sổ bầu dục) sẽ lớn hơn ở phía trước
hệ xương con nơi tiếp giáp với màng nhĩ: 17 x 1,3 = 22 lần. Người
ta cho rằng dù bị hao hụt năng lượng do ma sát sự khuếch đại
đó cũng còn đạt được rất lớn, gần 20 lần.
Hệ
thống xương con cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc dẫn
truyền các sóng âm. Nó bổ sung những hao hụt do sự phản xạ sóng
âm ở mặt ngăn cách giữa 2 môi trường có âm trở khác nhau. Âm
trở là đại lượng đặt trưng cho mức độ cản trở sự
truyền sóng âm của môi trường; nó tỉ lệ với khối lượng riêng
của môi trường và bình phương tần số âm thanh theo công thức
(2.22)
Âm
trở của màng nhĩ có giá trị gần bằng âm trở của không khí là
4,3.102kg/m2.s. Âm trở của cửa sổ bầu dục bằng âm trở của
ngoại dịch pêrilymphô ở đó, tức là gần như âm trở của nước,
có giá trị là 1,5.106kg/m2.s.
Như
thế nghĩa là nếu như không có hệ xương con mà sóng âm trực
tiếp từ tai ngoài tác dụng vào của sổ bầu dục thì 99.9% năng
lượng sóng âm bị phản xạ mà chỉ còn khoảng 0,1% được lan
truyền vào đến ngoại dịch pêrilympho theo công thức:
(2.36)
Trong
đó lần lượt là âm trở của môi trường ngoài và của của
sổ bầu dục
Tác
dụng bảo vệ tai trong của hệ xươn7g con khi gặp những âm có cường
độ lớn là sự chuyển đổi từ dao động sóng dọc sang chuyển
động xoáy của ngoại dịch pêrilympìlo của hệ xương con.
Quá
trình tiếp nhận và cảm thụ âm thanh ở tai trong xảy ra phức
tạp hơn nhiều. Ở đây màng đáy đóng vai trò rất quan trọng.
Những nghiên cứu về màng đáy của Hehnholtz và nghiên cứu cơ
chế cảm thụ âm thanh của Bekesy gần đây đã làm sáng tỏ hơn cơ
chế lý sinh thính giác.
Cấu
tạo chính của tai trong là ốc tai. Ốc tai có chiều dài khoảng 35
mm. Chiều dài đó được ngăn thành 3 khung gọi là 3 bậc thang và
được ngăn cách nhau bằng những màng (Hình 2.6). Màng đáy ngăn cách
giữa bậc thang màng nhĩ và bậc thang ốc tai. Màng trước ngăn cách
bậc thang ốc tai và bậc thang trước.
Bậc
thang màng nhĩ và bậc thang trước chứa ngoại dịch pêrilymphô và
nối với đỉnh của ốc tai bằng một lỗ thông. Bên trong thân
ốc tai chứa đầy dịch enđôlymphô. Màng đáy được cấu tạo
bởi một hệ vòng xoáy gọi là thể Corty bao gồm các cơ quan cảm
thụ của tế bào thần kinh thính giác.
Theo
lý thuyết của Bekesy, dao động của cửa sổ bầu dục làm cho
ngoại dịch pêrilymphô dưới
đó chuyển động xoáy. Chính những chuyển động xoáy này gây ra
sự khác nhau về áp suất giữa các bậc thang trước và bậc thang
màng nhĩ, tác dụng lên màng đáy. Từ đó tạo ra các sóng xung lan
truyền dọc theo màng đáy đi về phía ốc tai.
Mỗi
sóng âm với một tần số nhất định tác dụng vào một vị trí
xác định trên màng đáy và kích thích những receptor nhất định
ở thể Corty. Âm tần số càng cao thì vị trí kích thích càng
gần đỉnh ốc tai (cửa sổ bầu dục). Ở đó màng rất căng và
hẹp. Âm càng có tần số thấp thì kích thích các vị trí càng
ở gần với đầu đối diện.
Bằng
cơ chế đó, tai phân tích tần số sóng âm tới kích thích. Các
xung kích thích được mã hóa và truyền về một vị trí nhất định
ở vỏ não bởi những tơ thần kinh xác định. Với những âm
phức hợp thì tạo ra sự kích thích ở nhiều điểm hơn và do
vậy gây ra cảm giác khác nhau về âm sắc.
Cường
độ sóng âm ảnh hưởng đến biên độ dao động ở cửa sổ
bầu dục và vận tốc của chuyển động xoáy của ngoại dịch pêrilympho.
Cho
đến nay người ta chưa hiểu rõ hết bản chất của quá trình mã
hóa các sóng xung kích thích của âm để dẫn truyền vào các tế
bào thần kinh thính giác. Các nghiên cứu về điện sinh học ở cơ
quan thính giác xác nhận rằng cơ chế của quá trình mã hóa thông
tin ở đây cũng là làm xuất hiện điện thế hoạt động. Ở đây
người ta gọi là các điện thế âm thanh. Ðiện thế âm thanh
quyết định cả tần số và cường độ âm. Ngày nay bằng các vi
điện cực người ta đã ghi đo được giá trị của các điện
thế âm thanh đó. Ðiện thế âm thanh là kết quả của tất cả các
quá trình xảy ra ở ốc tai khi tiếp nhận âm. Một điều đáng chú
ý là điện thế giữa enđolymphô và perilympho có giá trị khoảng
80 mV. Ðiện thế đó thể hiện điện thế nghỉ ở tai trong. Khi màng
đáy bị kích thích như đã giải thích ở trên, xuất hiện những
sự thay đổi về điện trở và tính thấm của màng tế bào ở
đây và làm xuất hiện điện thế hoạt động.
Chuẩn
đoán gõ.
Khi
gõ vào các vị trí tương ứng của các tạng (tim, phổi, gan...) trên
lồng ngực hay trên thành bụng, các tạng này sẽ dao động và phát
ra âm. Dựa vào âm phát ra chúng ta có thể xác định được vị
trí, kích thước của chúng. Cũng có thể đánh giá chúng bình thường
hay có bệnh do sự thay đổi về âm sắc và độ cao.
Ta
có thể dùng ngón tay hay một dùi nhỏ gõ trực tiếp trên da bệnh
nhân, ở vùng tương ứng với các phủ tạng cần chẩn đoán. Phương
pháp này ít dùng vì những chấn động gõ thường bị tắt dần
sau khi đi qua các lớp da, mô cơ... do đó chúng chỉ làm cho các
tạng đó dao động với biên độ nhỏ, âm phát ra nhỏ quá, khó
nghe.
Chúng
ta thường gõ qua ngón tay hoặc qua thanh gỗ mỏng đặt sát vào nơi
muốn gõ. Tùy theo bệnh nhân và yêu cầu chẩn đoán, chúng ta
phải gõ với mức độ mạnh nhẹ khác nhau: gõ mạnh đối với
bệnh nhân quá béo, với trẻ em phải gõ nhẹ.
Thường
chúng ta gõ với mức độ trung bình vì gõ như thế cũng đủ làm
cho các tạng ở sâu dưới da 5 cm dao động và dao động này có
thể lan truyền trên một diện tích từ 4 đến 6cm2. Khi muốn tìm
giới hạn của một tạng nào hay nghiên cứu một phần của tạng
đó, cần phải gõ nhẹ.
Âm phát ra khi gõ cần phải phân tích một cách tỉ mỉ về
cường độ, độ cao, âm sắc... Như thế mới nhận được các
thay đổi nhỏ của âm, phân biệt được các trường hợp bệnh lý
và bình thường. Thí dụ như âm phát ra khi gõ vào phổi của một
người bình thường có tần số cao, âm sắc phong phú (có nhiều
hoạ âm) cường độ lớn, thời gian dư âm dài: âm phát ra khi gõ
những tạng đặc hoặc phổi bị vôi hóa, màng phổi bị tràn
dịch... có tần số thấp (tiếng nghe đục), cường độ nhỏ,
thời gian dư âm ngắn. Còn âm ở ổ bụng, dạ dày phát ra có
tần số cao song âm sắc nghèo nàn (hầu như không có hoạ âm).
Chẩn
đoán nghe:
Ðó
là phương pháp nghiên cứu những âm từ cơ thể phát ra như của
tim, phổi để định bệnh.
Các
âm từ cơ thể phát ra thường có tần số không vượt quá 1000
Hz. Âm ở phổi do không khí qua lại khí quản, cuống phổi và mô
phổi sinh ra. Cường độ của âm này mạnh hay yếu là do hô hấp
nông hay sâu, độ cao của âm tỷ lệ nghịch với tiết diện khí
quản, cuống phổi. Khi khí quản; cuống phổi hẹp hay chứa các
dịch nhầy do một quá trình bị bệnh nào đấy thì âm phổi sẽ
thay đổi; có thể dựa vào sự thay đổi đó mà chẩn bệnh.
Âm
phát ra ở tim biến đổi do nhiều yếu tố: tình trạng các van
tim, vận tốc của máu, độ nhớt của máu, miệng của các van
(tức là các lỗ trong tim mà các van đó đậy lại)...
Bảng
2.2 cho biết liên hệ giữa tần số và tỉ lệ năng lượng của
âm phát ra từ một quả tim bình thường.
Bảng
2.2
Tần
số |
Năng
lượng |
50-60Hz |
56% |
60-70 |
27% |
70-80 |
10% |
80-90 |
4% |
90-100 |
2% |
100-110 |
1% |
Ðể
nghe các âm phát ra từ trong cơ thể, người ta thường dùng ống
nghe (stétoscope). Ống nghe gồm 2 dây cao su mềm hình trụ có tác
dụng truyền âm, nối với một hộp bằng sắt hình trụ bẹt,
mặt có căng một màng mỏng đóng vai trò một hộp cộng hưởng.
Hộp cộng hưởng có khi là một loa hình phễu không có màng căng.
Mặt của hộp cộng hưởng đặt áp sát da (nơi muốn nghe), dao động
âm của cơ thể truyền tới được hộp này khuếch đại, sau đó
sẽ qua các dây truyền âm để tới tai.
Tần
số dao động riêng của màng căng tỉ lệ thuận với độ căng
của màng. Các dao động âm từ cơ thể tới màng sẽ làm màng dao
động mạnh nhất (cộng hưởng) nếu tần số của chúng trùng
với tần số dao động riêng của màng.
Nếu
dùng loa để nghe, thì chỗ da bệnh nhân bị loa ép vào sẽ căng ra
và đóng vai trò của một màng căng. Chúng ta có thể điều chỉnh
sức ép của loa vào da để độ căng của màng da đó có tần số
dao động riêng trùng với tần số của âm muốn nghiên cứu, nhờ
đó chúng ta có thể nghe âm này rõ hơn các âm khác, (thường còn
dùng cách này khi âm muốn nghiên cứu bị các âm khác che lấp).
Phép
thử Rinnơ (Rhinner).
Mục
đích phép thử này để xác định tổn thương ở vùng nào của cơ
quan thính giác: ở tai ngoài, tai giữa, tai trong hoặc não.
Phép
thử này dựa vào nhận xét như sau : Những dao động âm có thể
truyền qua xương sọ tới những tận cùng của thần kinh thính giác...
và cho chúng ta cảm giác âm; do đó dù rằng tai ngoài và tai giữa
hỏng rồi âm vẫn truyền qua xương và gây cảm giác được.
Nếu
ta đặt một âm thoa đang dao động gần tai bệnh nhân sau đó để
bệnh nhân cắn đuôi âm thoa đó (dao động của âm thoa lúc này cũng
có biên độ giống lúc trước). Nếu lúc đầu bệnh nhân còn nghe
được âm, lúc sau không được thì dấu hiệu Rinnơ là dương,
nếu ngược lại ta có dấu hiệu Rinnơ âm.
Một
chứng điếc có dấu hiệu Rinnơ dương chứng tỏ một tổn thương
ở tai trong hoặc não. Nếu dấu hiệu Rinnơ âm thì tổn thương
chỉ khu trú ở tai ngoài hay tai giữa.
Ứng
dụng siêu âm trong điều trị.
Do
siêu âm có tần số rất lớn (>20.000 Hz ( bước sóng nhỏ) nên
khi lan truyền ít bị nhiễu xạ, truyền tương đối thẳng và ta có
thể tạo ra chùm siêu âm hội tụ lên những vị trí cần thiết
bằng các dạng đặc biệt của đầu phát siêu âm. Khi truyền qua
môi trường, do môi trường có ma sát và hấp thu nhiệt nên cường
độ của siêu âm giảm theo quy luật (2.26):
I= Ioe- a
x
Qua
thực nghiệm người ta thấy ( tỷ lệ với bình phương tần số f
của âm, tỷ lệ nghịch mật độ môi trường và lập phương
vận tốc nhỏ
(2.36)
Thế
nên, siêu âm bị hấp thụ nhiều trong không khí, đồng thời do
mặt phân giới giữa môi trường nào đó với môi trường không
khí phản xạ nhiều sóng siêu âm nên khi điều trị hoặc chẩn đoán
dùng siêu âm người ta phải để đầu phát siêu âm sát da và ở
trên da phải bôi một lớp dầu, hoặc ngâm cả đầu phát siêu âm
lẫn bộ phận cần điều trị vào nước. Sự hấp thụ năng lượng
siêu âm của môi trường thể hiện bằng sự tăng nhiệt độ.
Mức tăng của nhiệt độ phụ thuộc vào tỉ nhiệt môi trường,
nhiệt độ môi trường ngoài... Lợi dụng đặc tính này người
ta dùng siêu âm làm dãn các mạch máu ngoại biên để tăng cường
tính thẩm thấu của tế bào biểu bì, do đó có tác dụng chống
viêm.
Lúc
qua mặt phân giới giữa hai môi trường, siêu âm tạo nên sức ép
vào mặt này. Sức
ép tỉ lệ thuận với năng lượng của luồng siêu âm đi tới, vào
khoảng 1G/cm2. Vì vậy khi nhúng đầu phát siêu âm vào nước, siêu
âm có thể làm nước bắn lên cao tới vài cm. Nhờ có sức ép này
các tổ chức nông của cơ thể bị chấn động, đó là một cách
xoa bóp tế vi, một tác dụng rất quí trong điều trị chứng viêm
tế bào.
Siêu
âm là sóng dọc, khi truyền nó làm biến dạng nén giãn môi trường:
có vị trí mật độ môi trường lớn vì các phần tử bị ép
lại; có vị trí mật độ môi trường nhỏ vì các phần tử giãn
cách nhau xa. Khi công suất máy phát lớn, tại nơi mật độ môi trường
lớn, áp suất nén có thể tới hàng vạn atmôtphe; còn tại nơi
mật độ nhỏ các phần tử bị giãn ra với "áp suất giãn"
có trị số tương tự. Lực dán các phân tử như vậy đủ lớn
để thắng lực hút giữa các phân tử, môi trường khi ấy tự đứt
và tạo thành lỗ vi mô. Nếu quá trình này xảy ra trong nước thì
những lỗ này sẽ bị hơi nước hoặc các khí hoà tan choán đầy.
Hiện tượng tạo thành lỗ đóng một vai trò quan trọng, gắn
liền các hiện tượng điện, điện hóa... được áp dụng trong
nhiều ngành. Do hiện tượng tạo thành lỗ, các tế bào sống đặc
biệt là hồng cầu và tếch trùng có thể bị vỡ. Trong y học dùng
hiện tượng tạo thành lỗ để chống đông máu, diệt trùng.
Vì
siêu âm truyền qua được các mô trong cơ thể, làm cho các tế bào
bị chấn động, cơ thể hấp thu của siêu âm một nhiệt lượng
đáng kể nên người ta dùng nó để chữa một số bệnh, chẳng
những ở ngoài da mà còn cả ở trong sâu.
Những
bệnh chữa bằng siêu âm có hiệu quả nhất là các chứng đau các
dây thần kinh, đặc biệt là dây thần kinh toạ, thấp khớp...
Ta
cần chú ý rằng siêu âm với tần số thường dùng cao ((
>100.000 Hz) chỉ qua một lớp không khí mỏng đã bị ngăn lại,
do đó người ta thường bôi dầu lên da để làm môi trường trung
gian giữa da và đầu phát siêu âm thay cho không khí.
Lưu
ý không dùng siêu âm điều trị cho những người đang có thai, đang
bị lao, bị sốt và ở trẻ em.
Gần
đây người ta đã bắt đầu dùng những sóng siêu âm có cường
độ lớn (1,4 x 107W/m2) để phá hủy các tổ chức bệnh trong sâu
như sỏi thận, u tuyến,.v.v...
Ứng
dụng siêu âm vào chẩn đoán.
Siêu
âm được ứng dụng vào chẩn đoán bệnh là nhờ các đặc điểm
sau:
* Chùm
siêu âm song song truyền qua môi trường, bị môi trường hấp
thụ, cường độ giảm theo qui luật (2.26):
I = Io.e- a
x
-
Chùm siêu âm gặp mặt phân giới giữa hai môi trường sẽ phản
xạ. Khi hai môi trường có âm trở (Z = (.v) rất khác nhau thì sự
phản xạ lại càng mạnh.
Thí
dụ: Biểu thức
(2.37)
cho
ta liên hệ biên độ sóng phản xạ, sóng tới (vuông góc mặt phân
giới) với âm trở hai môi trường.
Sau
đây là giá trị âm trở của một số vật chất hay gặp:
Không
khí:
429 kg/cm2.s
Nước:
1,48 x 106 kg/m2.s
Mô
mềm của cơ thể người: 1,6.106
kg/m2.s
Mô
xương:
1,62.106 kg/m2.s
Máu
và não:
1,56.106 kg/m2.s
Mô
mỡ:
1,40.106 kg/m2. s
Hệ
số phản xạ ở mặt ngăn cách của sóng siêu âm giữa hai môi trường
có âm trở Z1 và Z2 theo (2.37) sẽ là:
Hệ
số R đo giữa nước (mô mềm cơ thể...) và không khí là 0,99. Như
thế nghĩa là hầu hết năng lượng (99%) của chùm siêu âm đã
bị phản xạ và chỉ 1% được lan truyền tiếp tục. Hệ số R cũng
khá lớn giữa xương và mô mềm, phổi và mô, v.v...
-
Chùm siêu âm gặp vật di chuyển, có thể ứng dụng hiệu ứng
Doppler để xác định vận tốc theo hiệu tần số phát và thu (cùng
một đầu dò phát - thu) theo công thức (2.37).
-
Tác động của siêu âm lên tế bào không gây nên các đột biến
di truyền nên dùng cho phụ nữ có thai, thai nhi... đỡ nguy hiểm hơn
tia X nhiều lần.
Trên
thực tế dùng siêu âm trong chẩn đoán theo 2 hướng chính sau:
Chẩn
đoán bằng hình ảnh siêu âm.
Sơ
đồ nguyên lý cách tạo hình ảnh siêu âm để chẩn đoán bệnh
như sau:
a)
Hình ảnh tạo nên nhờ chùm siêu âm truyền qua tương tự như
tạo ảnh X quang trong chẩn đoán.
1
- Ðầu và máy phát siêu âm.
2
- Ðối tượng khảo sát.
3
- Ðầu và máy thu siêu âm đã truyền qua đối tượng.
4
- Bộ biến đổi tín hiệu siêu âm thành hình ảnh.
b)
Hình ảnh tạo nên nhờ chùm siêu âm phản xạ từ các mặt phân
giới đối tượng khảo sát với môi trường xung quanh.
1.
Máy và đầu phát - thu siêu âm.
2.
Ðối tượng khảo sát.
3.
Bộ biến đổi tín hiệu siêu âm thành hình ảnh và ghi lại.
Áp
dụng nguyên lý này vào chẩn đoán, người ta còn chia ra các
kiểu:
+
Sóng xung phản xạ kiểu A (A - Scope): Ðó là phương pháp ghi đo sóng
phản xạ trên một bình diện. Ðầu phát sóng được hướng vào
vùng đo. Khi gặp phải vật hoặc môi trường có âm trở khác sẽ
phát sóng xung phản xạ. Các sóng xung đó được biến thành xung
điện
và được ghi lại hoặc hiện lên màn huỳnh quang. Chúng được
thể hiện thành từng dấu hiệu hình parabol ngược có độ cao, độ
rộng hẹp khác nhau. Căn cứ vào các đặc điểm của
sóng xung và thời gian (khoảng cách) xuất hiện mà ta chẩn đoán
được bệnh. Phương pháp này dợn giản, rẻ nhưng khó phân tích,
nếu trên đường đi của sóng âm có nhiều lớp vật chất có âm
trở khác nhau.
Phương
pháp này hay được dùng để tìm di vật, các ổ áp xe, tụ máu
trong não, trong sản phụ.
+
Sóng xung phản xạ kiểu B (B - scope): Ðó là phương pháp xung phản
xạ trên 2 bình diện, phức lạp hơn kiểu A nhiều. Các sóng xung
phản xạ được thể hiện bằng những chấm có độ sáng khác
nhau tùy thuộc cường độ sóng xung, nó phản ánh hình ảnh hai bình
diện của đối tượng nghiên cứu. Ngày nay sóng xung phản xạ
kiểu B được áp dụng rộng rãi hơn kiểu A trong chẩn đoán các
bệnh của gan, mật, mắt, sọ não, tim, v.v...
Ngoài
ra còn siêu âm chẩn đoán kiểu TM (từ chữ Anh Tim - Motion) hay còn
gọi là kiểu M. Ðây là những nghiên cứu cấu trúc các mô tạng
ở trạng thái động (tim, mạch v.v.:.) là cơ sở của phương pháp
chụp cắt lớp bằng siêu âm.
Trong
việc dùng siêu âm vào chẩn đoán, để tránh cho chùm siêu âm bị
không khí hấp thụ và gây phản xạ ngay trên mặt da, giữa đầu
dò siêu âm (phát và thu) và da người bệnh, người ta hay bôi đệm
một lớp đầu (ví dụ dầu paraphin lanolin có âm trở Z giống như
của cơ thể, nên áp đầu dò vào da đầu, ta loại được lớp không
khí len giữa, nên loại được phản xạ)
Việc
chẩn đoán bằng hình ảnh siêu âm đã có nhiều tiến bộ vượt
bậc trong thời gian gần đây đặc biệt tác dụng khi đối tượng
rất khó phát hiện bằng hình ảnh do lia X tạo ra (thí dụ mảnh
đạn bằng nhựa chứ không phải kim loại).
Chẩn
đoán chức năng dựa vào hiệu ứng Doppler.
Phương
pháp này thường dùng để chẩn đoán các bệnh của tuần hoàn
ngoại biên như viêm tắc động mạch, tĩnh mạch, xoang, rò động
mạch... Thí dụ: có thể thăm khám các mạch máu lớn bằng hiệu
ứng Doppler (( có thể biểu hiện bằng một đường cong phản ánh
tốc độ tức thời của máu tại nơi thăm khám. Ở trạng thái bình
thường mỗi mạch máu có một đường cong đặc trưng liên quan rõ
rệt với đường kính cũng như vùng tưới máu của nó.
***&&&***
1.
Ðặc điểm của dao động:
a) chuyển động được lặp lại nhiều lần theo thời gian
b) hệ phải có một vị trí cân bằng.
c) hệ dao động qua lại quanh vị trí cân bằng
d) tất cả các yếu tố trên.
2.
Dao động điều hòa:
a)
chu kỳ bằng tổng số dao động mà hệ thực hiện được trong
một đơn vị thời gian
b) là hoạt động của tim vừa hút vừa đẩy máu đi liên
tục đến các cơ quan.
c) chu kỳ của dao động là ổn định và biên độ là không
đổi.
d) năng lượng không được bảo toàn
3.
Dao động cưỡng bức:
a) là hoạt động của tim vừa hút vừa đẩy máu đi liên
tục đến các cơ quan.
b) Khi tần số của lực tuần hòan bằng tần số dao động
riêng của hệ
c)
dùng ngoại lực từ các máy kích thích tuần hoàn tác dụng một
số bộ phận trên cơ thể.
d) câu a và câu b là đúng.
e) Câu a và câu c là đúng.
4.
Sự truyền sóng:
a) quá trình vận chuyển vật chất trong môi trường.
b) quá trình lan truyền sóng cơ học trong một môi trường
vật chất.
c) phương dao động của các phần tử môi trường vuông góc
với tia sóng.
d) dao động của các phần tử của môi trường trùng với
tia sóng.
5.
Bước sóng (:
a) khoảng cách ngắn nhất giữa các điểm có dao động cùng
pha.
b) tổng số dao động mà hệ thực hiện được trong một
đơn vị thời gian.
c) quảng đường mà sóng truyền được sau khoảng thời gian
bằng một chu kỳ.
d) câu a và câu b.
e) câu a và câu c.
6.
Âm trở của môi trường:
a) vận tốc truyền của siêu âm.
b) năng lượng sóng đi qua một đơn vị diện tích của môi
trường.
c)
năng lượng sóng đi qua một đơn vị diện tích của môi trường
khi biên độ dao động bằng một đơn vị chiều dài.
d) năng lượng của sóng đi qua một đơn vị thể tích của
môi trường.
7.
Âm thanh:
a) Những dao động cơ có tần số dưới 20 Hz.
b) những dao động có tần số trên 20.000 Hz.
c) những dao động có tần số là 50 Hz.
d) những dao động có tần số khoảng từ 20 - 20.000 Hz.
8.
âm thanh đi thành tia và :
a) cũng bị phản xạ.
b) cũng bị khúc xạ.
c) cũng bị nhiễu xạ.
d) cũng bị phản xạ, khúc xạ, nhiễu xạ và hấp thụ như
tia sáng.
9.
Vận tốc truyền âm thanh
a) không thay đổi khi âm thanh truyền qua các môi trường khác
nhau.
b) Vận tốc truyền âm trong chất khí tỉ lệ với nhiệt độ.
c)
Vận tốc truyền âm trong vật rắn lớn gấp 10 lần vận tốc
truyền âm trong không khí,
d) câu a và câu b là đúng.
e) câu b và câu c là đúng.
10.
Cường độ âm cần phải cảnh giác đối với màn nhỉ chúng ta:
a)
b)
c) 130 dB.
d) 90 dB.
11.
Khu vực mà tai ta dễ cảm giác âm thanh nhất:
a) tần số dưới 20 Hz.
b) tần số cao hơn 20000 Hz.
c) tần số dưới 1000 Hz.
d) tần số dưới 20000 Hz và lớn hơn 20 Hz.
12.
Ðộ cao của âm thanh:
a) Ðộ trầm, bổng của âm thanh.
b) Ðộ lớn nhỏ của âm thanh.
c) Sự khác nhau giữa hai nhạc cụ, hai giọng nói cùng tần
số.
d) Ðộ lớn của vận tốc truyền âm.
13.
Ðược tiếp nhận bằng những phần khác nhau của màng nhỉ là:
a) Âm sắc.
b) Công suất rung cuả âm.
c) Cường độ âm
d) Những dao động âm khác nhau về tần số
14.
Hiệu ứng Doppler
a)
Khi nguồn âm tiến lại gần quan sát viên, tần số mà quan sát viên
nhận được cao hơn tần số do nguồn âm đã phát ra
b)
Khi nguồn âm tiến lại gần quan sát viên, tần số mà quan sát viên
nhận được thấp hơn tần số do nguồn âm đã phát ra
c)
Khi nguồn âm đi ra xa quan sát viên, tần số mà quan sát viên nhận
được cao hơn tần số do nguồn âm đã phát ra
d)
Khi nguồn âm đi ra xa quan sát viên, tần số mà quan sát viên nhận
được cao thấp tần số do nguồn âm đã phát ra.
e) Câu a và d là đúng.
15.
Khi phát âm không khí được:
a) đẩy từ phổi lên thanh qủan với một áp suất nhất định
b) đi qua khe hẹp của hai dây thanh quản làm dây rung lên
c) được luồng thân kinh trung ương
chỉ huy độ căng của dây
d) câu a và b là đúng.
e) câu a và c là đúng.
16.
tần số âm thanh phát ra tại thanh qủan:
a) tỉ lệ với lực căng của dây thanh quản.
b) tỉ lệ chiều dài dây thanh qủan
c) tỉ lệ khối lượng một đơn vị chiều dài dây thanh
qủan.
d) Không có câu nào đúng cả.
17.
xung thấn kinh điều khiển sự phát âm có nhiûp điệu ơí
a)
vùng đồi thị của võ nảo
b) ở trung nảo
c) Bán cầu tiểu nảo.
d) Bán cầu đại nảo.
18.
Cơ chế của qúa trình nghe:
a)
sóng âm truyền đến tai ngoài, sự thay đổi áp suất
do dao động làm cho các phần tử của màng nhỉ dao động theo
b)
dao động màng nhỉ truyền đến cửa sổ bầu dục của
tai giữa, thông qua hệ thống xương con ở đó.
c)
dao động của các phần tử ở cửa sổ bầu dục tạo
ra chuyển động ngoại dịch pêrilymphô chứa trong ốc tai.
d)
một chuổi các hoạt động từ a, b, c.
19.
Chỉ ra một câu phát biểu sai về cơ chế thu nhận âm:
a)
Mỗi sóng âm với một tần số nhất định tác dụng vào một vị trí xác định trên màng đáy và
kích thích những receptor nhất định ở thể Corty
b) Âm tần số càng cao thì vị trí kích thích càng xa
đỉnh ốc tai (cửa sổ bầu dục).
c) Âm càng có tần số thấp thì kích thích các vị trí
càng ở gần với đầu đối diện.
d) Ðiện thế âm thanh quyết định cả tần số và cường độ âm.
20.
Mục đích của chẩn đoán gõ:
a)
Dựa vào âm phát ra của một số bộ phận gõ, ta có thể đánh giá các phần tim, phổi, gan là bình thường
hay có bệnh do sự thay đổi về âm sắc và độ cao.
b)
Tùy theo bệnh nhân và yêu cầu chẩn đoán, chúng ta phải gõ với
mức độ mạnh nhẹ khác nhau
c)
Gõ mạnh đối với bệnh nhân quá béo, với trẻ em phải gõ nhẹ
d)
Phải phân tích một cách tỉ mỉ âm thanh tạo ra khi gõ về cường
độ, độ cao, âm sắc.
21.
Nếu âm phát ra khi gõ vào phổi của một người đạt tần số
cao, âm sắc phong phú, cường độ lớn, thời gian dư âm dài ta
kết luận:
a)
Người đó có da dầy bị bệnh.
b)
Người đó có màng phổi bị tràn dịch.
c)
Người đó có phổi hoạt động bình thường.
d) Người đó có phổi bị vôi hóa.
22.
Mục đích của chẩn đoán nghe
a) nghiên cứu những âm từ cơ thể phát ra khi ta gõ
vào chúng.
b) nghiên cứu những âm từ cơ thể phát ra như của
tim, phổi để định bệnh.
c) người ta dùng ống nghe (stétoscope).
d) dùng ống nghe khi âm muốn nghiên cứu bị các âm khác che lấp.
23.
Mục đích phép thử Rhinner:
a) dùng một âm thoa đang dao động gần tai bệnh nhân
b) dùng dấu hiệu Rinnơ dương chứng tỏ người bị điếc
c) để xác định tổn thương ở vùng nào của cơ quan
thính giác
d) dùng dấu hiệu Rinnơ âm chứng tỏ người bị điếc