_______________________________________________________________________________________________
Sự
gia tăng dân số tự nhiên trên toàn thế giới hiện nay ước tính
khoảng hơn 238.000 người cho mỗi ngày, như vậy đến năm 2000 dân
số thế giới là 6,1 tỉ, năm 2020 có
thể đạt đến 8 tỉ người. Vấn
đề đặt ra ở đây là để đảm bảo cho sự tồn tại và phát
triển của xã hội loài người trong giai đoạn hiện nay và trong tương
lai thì con người cần phải được cung cấp đủ lương thực,
thực phẩm, quần áo, thuốc men, nhà ở và nhiều nhu cầu khác...
Trước
tình hình các nguồn tài nguyên tự nhiên càng ngày càng cạn kiệt
và suy thoái, sự ô nhiểm
môi trường càng ngày càng trầm trọng; bên cạnh đó nạn
hạn hán và lũ lụt đã và đang xảy ra ở nhiều nơi trên thế
giới, sự tấn công phá hoại của các loài dịch hại.., đã ảnh
hưởng tiêu cực đến sản lượng lương thực và thực phẩm
của con người. Ðó la ìnhững
nguyên nhân dẩn đến nguy cơ của nạn đói có thể xảy ra cho nhân
loại trong tương lai.
Vấn
đề nầy đang được các nhà khoa học của các quốc gia trên
thế giới đặc biệt quan tâm và từ đó vạch ra nhiều biện pháp
nhằm có thể làm tăng nhanh sản lượng lương thực và thực
phẩm cho nhân loại trong thời gian tới thì mới hy vọng có thể
tránh được nguy cơ nầy.
I. CÁC HỆ THỐNG NÔNG NGHIỆP TRÊN THẾ GIỚI
Thực
vật và động vật là hai nguồn tài nguyên cung cấp lương thực và
thực phẩm nuôi sống nhân loại trên toàn thế giới.
Theo sự đánh giá, hiện nay có khoảng hơn 80.000 loài thực
vật có thể sử dụng được để làm thức ăn (Miller, 1988), trong
đó có khoảng 30 loài được con người sử dụng làm lương thực
với 4 loài chủ yếu là lúa,
lúa mì, lúa mạch và khoai tây. Các
loài động vật cung cấp thịt, sửa, trứng, bơ và phó mát; hầu
hết các loại thực phẩm
nầy chủ yếu lấy từ các động vật nuôi như heo, bò, gà, gà tây,
ngỗng, trừu, dê, trâu và cá..., một số nơi còn sử dụng các động
vật hoang dã bổ sung thêm cho khẩu phần
ăn hàng ngày.
Tuy
nhiên, việc sử dụng lương thực và thực phẩm không giống nhau
ở các quốc gia trên thế giới. Ở
các quốc gia chậm phát triển (LDCs) thì các loại thực phẩm từ
thịt và các sản phẩm khác từ thịt thì vẫn còn đắt đối với
bộ phận lớn dân cư, nhất là đối với những người lao động
nghèo, nên trong khẩu phần ăn của họ chủ yếu là ngủ cốc còn
thịt và các sản phẩm từ thịt thì lại rất ít; vì thế trong
khẩu phần ăn mà họ sử dụng rất nghèo chất dinh dưỡng,
vitamin và khoáng chất.
Ngược
lại, ở các quốc gia phát triển (MDCs), do nền nông nghiệp được
cơ giới hóa và chăn nuôi phát triển với qui mô lớn nên
sản lượng lương thực, thực phẩm sản xuất ra rất dồi
dào; vì thế trong khẩu phần ăn của họ thì thịt và các sản
phẩm từ thịt là chủ yếu,
còn ngủ cốc thì sử dụng rất ít, nên khẩu phần ăn rất dồi
dào chất dinh dưỡng, các vitamin và khoáng chất.
Hai
loại hình chính của nông nghiệp hiện nay trên thế giới là sự
phát triển trong lĩnh vực trồng trọt và chăn nuôi.
Tham gia vào 2 lĩnh vực nầy, theo ước tính có khoảng 2/3 dân
số thế giới (khoảng 4 tỉ người) và chiếm phần lớn là ở các
quốc gia kém phát triển. Trong tổng sản lượng lương thực và
thực phẩm nông nghiệp thu được hằng năm trên toàn thế giới
thì có khoảng 60% sản lượng được tạo ra từ sản xuất thủ công
ở các quốc gia kém phát triển và 40% được tạo ra từ sản
xuất nông nghiệp có cơ giới hóa ở các quốc gia phát triển.
Các
nhà nghiên cứu cho rằng nguồn năng lượng có trong mỗi sản
phẩm nông nghiệp được tạo ra từ các quốc gia kém phát triển
là sự tổng hợp các nguồn năng lượng từ ánh sáng mặt trời
kết hợp với nguồn năng lượng của nhà nông và sức kéo của
động vật đã trải qua một thời gian lao động vất vả tạo nên.
Còn nguồn năng lượng có trong mỗi sản phẩm nông nghiệp có
cơ giới hóa là sự tổng hợp của nguồn năng lượng mặt trời,
năng lượng từ dầu mỏ thông qua máy móc cơ giới, của phân bón,
thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ và chỉ có một phần rất nhỏ là
năng lượng của nhà nông bỏ ra (Miller, 1988).
II. CÁC VẤN ÐỀ LIÊN QUAN ÐẾN LƯƠNG THỰC THỰC
PHẨM
Sự
tăng trưởng dân số trên trái đất hiện nay đặt sinh quyển vào
tình trạng khủng hoảng. Vào
đầu Công nguyên toàn thế giới chỉ có 136 triệu người, phải
đến năm 1850 dân số thế giới mới đạt đến 1 tỉ người
rồi 80 năm sau (1930) đạt 2 tỉ, năm 1960 đạt 3 tỉ, năm 1974 đạt
4 tỉ và đến 11/07/1987 thế giới đã có 5 tỉ người.
Toàn thế giới đến nay (tháng 07/1994) đã có 5,63 tỉ người
và dự kiến đến năm 2000 sẽ có khoảng 6, 1 tỉ người.
Trước
nguy cơ về dân số bùng nổ, nhiều nước đã thực hiện quốc sách
"kế hoạch hóa gia đình" nên đã hạn chế một phần
tốc độ phát triển của dân số. Trong thập niên 80, mỗi năm thế giới có 130
triệu trẻ em mới sinh thì đến nay con số đó chỉ còn 86 triệu
người, như vậy mỗi ngày thế giới vẫn còn tăng khoảng 238.000
người.
Mức
độ tăng dân số không đều: cao nhất là ở Trung Mỹ (3,4%), Mỹ
La Tinh (3%), Châu Phi (2,5%), Châu Á (2,3%), Bắc Mỹ (1,3%), Châu Âu
(0,8%).... Trước đây 20 năm,
tốc độ phát triển của dân số thế giới là 2% thì đến năm
1994 đã giảm xuống còn 1, 57%.
Một
đặc điểm cần lưu ý là theo sự ước tính, trung bình cứ 10 đứa
trẻ được sinh ra thì đã có 9 đứa được ra đời ở các quốc
gia nghèo và các quốc gia đang phát triển, dân số các quốc gia
nầy hiện nay chiếm khoảng 2/3 dân số thế giới. Tại thời điểm
1987, các quốc gia đông dân nhất là Trung Quốc (1,2 tỉ), Ấn Ðộ
(919 triệu), Liên Xô (280 triệu) Hoa Kỳ (261 triệu), Indonesia (195
triệu), Bresil (159 triệu), Pakistan (137 triệu), Nhật Bản (120
triệu).
Ngày
12/10/99 ngày đánh dấu dân số thế giới tròn 6 tỉ người tăng
gấp 4 lần so với đầu thế kỷ 20.
Ðất
đai thì có hạn, dân số tăng nhanh, nên bình quân diện tích đất
tính theo đầu người giảm liên tục.
Bảng
1. Tập hợp một vài số
liệu bình quân diện tích đất vào thời điểm năm 1980
Quốc
gia |
Ðất tự nhiên
(m2 / người) |
Ðất
nông nghiệp
(m2 / người) |
Ðất canh tác (m2/người) |
Trung
bình trên toàn thế giới Liên
xô Hoa
kỳ Bungari Pháp Nhật
bản Việt
Nam |
33.600 86.900 43.500 12.600 10.400 3.250 5.600 |
12.000 24.000 20.000 7.000 6.400 650 1.300 |
4.000 8.800 8.900 4.700
3.300 400 900 |
Dân số tăng vọt là nguyên nhân gây ra nhiều lo lắng cho nhân
loại khi sắp bước sang thế kỷ 21: môi trường sinh thái bị phá
hủy hết sức nghiêm trọng đến mức báo động, lo sản xuất không
đủ nuôi sống nhân loại, lo về nhà ở, thuốc men, quần áo và
nhiều nhu cầu cấp thiết khác....Những vấn đề chiến lược đó
đặt ra cho toàn cầu, cho từng quốc gia mà khâu đầu tiên giữ
vai trò quyết định là khâu dân số và kế hoạch hóa gia đình.
a.
Năng suất sinh học sơ cấp
Tổng
diện tích của đại dương và biển khoảng 36 tỉ ha (chiếm 71%
diện tích quả đất) và
của các lục địa là 15 tỉ ha (chiếm 29% diện tích trái đất).
Nguồn năng lượng mặt trời mà trái đất nhận được là
5.1020 kcal/năm, trong đó lục địa nhận 1,4 1020 kcal/năm,
còn lại 3,6. 1020 kcal /
năm dành cho đại dương và biển.
*
Năng suất sinh học sơ cấp của các lục địa
Năng
suất sinh học được tạo ra từ rừng trên toàn thế giới, nếu
tính cả hoa và rể thì có thể đạt trung bình 7 tấn/ha/năm, tất
nhiên là năng suất của từng loại rừng là có khác nhau, còn năng
suất tạo ra từ đất trồng trọt là 6 tấn/ha/ năm. Theo Leith, năng
suất sinh học hằng năm của các hệ sinh thái lục địa khoảng
53 tỉ tấn chất hữu cơ.
*
Năng suất sinh học sơ cấp của đại dương và biển.
Năng
suất sinh học sơ cấp của đại dương thấp hơn nhiều so với đất
liền. Ở những vùng biển và đại dương có dòng nước trồi
từ dưới sâu lên có nhiều chất dinh dưỡng thì nơi đó năng
suất cao (thí dụ ở dòng Bengal là 12 tấn/ha/năm). Tuy nhiên, diện
tích của đại dương và biển có dòng nước trồi rất ít và có
giới hạn.
Năng
suất sinh học sơ cấp được tạo ra từ các thực vật phù du,
theo ước tính của Steeman và Nielsen thì năng suất này đạt được
30 tỉ tấn/năm (tính trên toàn bộ diện tích đại dương và
biển).
Như
vậy, tổng năng suất sinh học sơ cấp của sinh quyển là 83 tỉ
tấn/năm.
Bảng
2. Năng suất sinh học sơ
cấp hàng năm của các hệ sinh thái lục địa (Leith, 1965)
Thành
phần |
Diện
tích (triệukm2) |
Tỉ
lệ %diện tích |
Năng suất (tấn/ha/ năm) |
Năng
suất chung(tỉ
tấn/ năm) |
Năng
lượng tương
đương
kcal |
Rừng Ðất
trồng trọt Thảo
nguyên và đồng cỏ Hoang
mạc Các
vùng cực |
40, 6
14, 5
26, 0
54, 2
12, 7 |
28%
10%
17%
36%
9% |
7 6 4 1
# 0 |
28, 4
8, 7 10, 4 5,
4 # 0, 0 |
11, 4.1016
3, 5.1016
4, 2.1016
2, 2.1016
# 0 |
Tổng
số |
148 |
100% |
|
52, 9 |
21, 3.1016 |
b.
Năng suất sinh học thứ cấp
Thực
vật thu nhận năng lượng mặt trời với hiệu suất từ 0, 1% đến
1%. Ðộng vật ăn cỏ tiêu thụ gần 10% năng lượng do thực vật
tích tụ, động vật ăn thịt bậc một tiêu thụ 10% năng lượng
tích tụ trong động vật ăn cỏ. Ðiều đó có nghĩa là hiệu
suất của động vật ăn thịt bậc một đối với năng lượng
mặt trời là 0, 001%; vì vậy động vật ăn thịt là nguồn
chuyển hóa năng lượng rất kém.
Ở
môi trường nước thì mức động vật ăn cỏ chính là các
động vật phù du, ở trên các lục địa thì động vật ăn cỏ
rất đa dạng nhưng chủ yếu là côn trùng và các loài thú ăn cỏ
còn các động vật còn lại đều là động vật ăn thịt.
Con
người được coi là một loài động vật tạp thực thường ở
đầu cuối của chuổi thức ăn hoặc đỉnh của tháp sinh thái.
Con người có thể sử dụng nguồn tài nguyên của sinh quyển để
làm thức ăn với các mức tiêu thụ khác nhau:
-
Ở mức sinh vật tiêu thụ bậc một: con người tiêu thụ các
sản phẩm có nguồn
gốc từ thực vật (phần
lớn là cây nông nghiệp) hàng năm sử dụng khoảng 8,7tỉ tấn
chất hữu cơ tương ứng với 3, 5 .1016 kcal.
Theo tài liệu của FAO (1959), thực tế con người chỉ sử
dụng các sản phẩm nông nghiệp làm thức ăn xấp xỉ 3,8 .1015
kcal, điều này có thể giải thích là trong các sản phẩm nông
nghiệp đó con người chỉ sử dụng một số bộ phận của cây
trồng như củ, quả, hạt; còn
phần thân, lá, rễ, thì bỏ đi. Hơn
nữa, các sản phẩm nông nghiệp khác mà con người không sử
dụng làm lương thực như cây công nghiệp, cây làm thức ăn gia súc,
cây làm thuốc, cây cảnh.... Mặc khác, trong các sản phẩm nông
nghiệp được con người sử dụng thì có sự hao hụt từ khâu
sản xuất sang khâu lưu trử, bảo quản, khâu lưu thông phân phối
và khâu chế biến; những sự hao hụt này chiếm tỉ lệ không
nhỏ.
-
Ở các bậc sinh vật tiêu thụ cao hơn: năng lượng mà con người
có thể nhận
được chiếm tỉ lệ càng nhỏ khi càng xa sinh vật sản xuất vì
hiệu suất chuyển hóa từ bậc dinh dưỡng này sang bậc dinh dưỡng
sau chỉ được 10%.
Theo
sự ước tính của các nhà chuyên môn thì năng suất sinh học
thứ cấp do các sinh vật tạo ra mà con người sử dụng để làm
lương thực thực phẩm là 74,5 triệu tấn protein/năm, trong đó có
23, 7 triệu tấn từ các động vật.
Nếu nhu cầu protein ở người là 1gr/1kg trọng lượng cơ
thể thì lượng protein cần cho nhân loại là 68,2 triệu tấn/năm.
Theo sự tính toán này chứng tỏ sinh quyển có khả năng thỏa mãn
nhu cầu protein của con người.
Trên
thực tế, sản lượng protein không phân bố đồng đều ở các
quốc gia trên các châu lục và lượng protein động vật trong
tổng sản lượng protein còn ít so với protein từ thực vật, sự
mất cân đối nầy còn tăng nhiều ở những năm mất mùa.
Con
người muốn sống và làm việc được thì cần phải ăn, trước
hết là để xây dựng cơ thể và sau đó là để bù đắp phần năng
lượng bị mất đi trong quá trình trao đổi chất, đặc biệt là
để hoạt động và thực hiện những công việc lao động chân
tay và trí óc một cách có hiệu quả.
Người
ta đo năng lượng tiêu thụ bằng số calo cần có trong khẩu phần
ăn. Ðối với người lao động nặng cần từ 3.500 - 5.000 kcal/ngày,
người lao động trung bình cần từ 3.000 - 3.500 kcal/ngày và người
lao động nhẹ cần 2.500 - 3.000 kcal/ngày. Tuy nhiên, nhu cầu năng lượng
nầy thay đổi tùy theo giới tính, lứa tuổi, điều kiện khí
hậu... Thí dụ như nhu cầu năng
lượng của một em trai từ 1
- 19 tuổi tăng từ 1.300 - 3.600 kcal/ngày, trong khi đó thì một em bé
gái cùng khoảng tuổi đó lại cần ít hơn.
Một cụ già cần 1.900 kcal/ngày, trong khi đó một thanh niên
25 tuổi khỏe mạnh lại cần 3.200 kcal/ngày.
Người sống ở xứ nóng cần thức ăn ít calo hơn người
sống ở xứ ôn đới và xứ lạnh.
Nếu
tính số lượng trung bình đối với tất cả những điều kiện
ăn uống khác nhau thì khẩu phần ăn hằng ngày thay đổi từ
2.150 kcal/ngày - 2.750 kcal/ngày.
Nên ta có thể công nhận con số trung bình là 2.400 kcal/ngày,
con số nầy được coi là nhu cầu vừa phải để cung cấp đủ
cho khả năng lao động chân tay và trí óc có hiệu quả.
Lấy
mốc của năm 1963 thì dân số của thế giới là 3, 11 tỉ nên nhu
cầu của nhân loại trong 1 năm là 3, 11 x 109 x 2400 x 365 = 2,7.1015
kcal, trong khi đó sinh quyển chỉ cung cấp được 2,6.1015 kcal/năm.
Như vậy, có thể tạm coi là nguồn thức ăn do sinh quyển
cung cấp nếu được phân phối đồng đều ở các nơi trên thế
giới thì cũng chỉ vừa đủ nuôi sống nhân loại.
Tuy nhiên sự phân phối nguồn lương thực nầy không đồng
đều trên thế giới nên nhu cầu thỏa mản cho mỗi người ở
mỗi nơi lại khác nhau
Bảng
3. Lượng thức ăn tính theo
đầu người/năm (FAO, 1963)
Quốc
gia |
Ngủ
cốc(kg) |
Ðường
(kg) |
Thịt(kg) |
Sửa |
|
|
|
|
|
Mở
(kg) |
Protein(kg) |
Bỉ
Hoa Kỳ Argentine
Nhật |
81 65 89 149 |
28 41 36 16 |
64 97 103 8 |
5 8 5 1 |
8 8 5 1 |
Bảng
4. Khả năng và nhu cầu về
calo đối với mỗi người trong ngày ở các nơi (Sukhatme, 1961)
Khu
vực |
Khả
năng hiện có
(Kcal) |
Nhu
cầu
(Kcal) |
Tỉ
lệ % giữa khả
năng và nhu cầu |
Ðông
Nam Châu Á Cận
Ðông Châu
Phi Châu
Mỹ La Tinh Châu
Âu Bắc
Mỹ Châu
Ðại Dương |
2.050 2.450 2.350 2.450 3.000 3.100 3.250 |
2.500
2.400
2.400
2.400
2.600
2.600
2.600 |
89% 102% 98% 102% 115% 119% 125% |
Bảng
5. Lượng calo và protein trong
khẩu phần hằng ngày/người (FAO, 1963)
Quốc
gia |
Kcal |
Protein |
|
|
|
Thực
vật(g) |
Ðộng
vật(g) |
Bỉ Hoa Kỳ Veneznela Ấn Ðộ |
2.950 3.090 2.340 2.000 |
83 91 60 51
|
46 65
22 6 |
a.
Thiếu dinh dưỡng và suy dinh dưỡng
Ðể
có sức khỏe tốt thì không chỉ có đủ thức ăn mà thức ăn
phải có đầy đủ chất dinh dưỡng như protein , carbohydrate, dầu
mỡ, vitamin và khoáng chất.
Những
người dân nghèo mà đại đa số các quốc gia kém phát triển,
cuộc sống của họ phải dựa vào một số cây lương thực chủ
yếu như lúa gạo, lúa mì, ngô, khoai tây... nên chế độ ăn uống
của họ thường xuyên thiếu dinh dưỡng. Việc sử dụng lâu dài
khẩu phần ăn thiếu chất dinh dưỡng dẫn đến cơ thể rơi vào
tình trạng suy dinh dưỡng, làm cho sức khỏe suy giảm đến mức
không còn đủ khả năng đề kháng với bệnh tật.
Hội
nghị quốc tế về lương thực được tổ chức ngày 13/11/1996 đã
ước tính hằng năm có khoảng khoảng 800 triệu người bị suy
dinh dưỡng mà phần lớn tập trung ở 2 lục địa Á châu và Phi
châu, trong đó có 200 triệu trẻ em. Hằng năm có khoảng 5 triệu
trẻ em suy dinh dưỡng bị chết vì các bệnh nhiễm trùng như
sởi, cúm, tiêu chảy (trong đó có khoảng 3/4 trẻ em chết vì bị
tiêu chảy) và đại đa số các trẻ nầy thuộc về các nước nghèo
và các nước đang phát triển (Miller, 1988).
Suy
dinh dưỡng không phải là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến cái
chết mà là do cơ thể không có khả năng đề kháng với các
bệnh nhiễm trùng nên thường dẫn đến chết non đặc biệt là dưới
trẻ em dưới 5 tuổi.
Trẻ bị suy dinh dưỡng có thân thể
gầy guộc bụng to, mắt to và sâu, khuôn mặt già hẳn đi. Tình
trạng nầy nếu không bị kéo dài quá lâu thì có thể phục hồi
được khi cho chúng ăn uống trở lại với khẩu phần ăn có đầy
đủ chất dinh dưỡng, tuy nhiên phải mất một thời gian khá dài.
Kwashiorkor từ địa phương của người Tây Phi gọi những đứa
trẻ bị suy dinh dưỡng là trẻ bị thay thêú, có nghĩa là những
đứa trẻ nầy bị thay thế bởi đứa em nhỏ của nó, nên phần
sửa phải nhường lại cho em và thức ăn của nó bây giờ chủ
yếu là thóc gạo, ngô, khoai nên thiếu protein, vitamin và các khoáng
chất nên dẫn đến suy dinh dưỡng.
Người
lớn bị suy dinh dưỡng thì sức khỏe cũng bị tổn hại và luôn
ở trong tình trạng cơ thể suy yếu, khả năng lao động chân tay
hoặc trí óc bị giảm; các con của họ được sinh ra cũng rơi vào
tình trạng suy dinh dưỡng như họ.
Bửa
ăn hằng ngày thiếu các Vitamin mà cơ thể không có khả năng
tổng hợp được sẽ gây nhiều hậu quả tai hại:
-
Thiếu Vitamin B1 gây bệnh phù thủng dẩn tới cứng tứ chi,
lớn tim, tê bại đau nhức, hệ thần kinh sa sút, ăn uống không
ngon.
-
Thiếu Vitamin A: gây loạn sắc tố ở mắt dẩn đến mù
mắt, hằng năm có khoảng 250.000 trẻ em bị mù do thiếu vitamin A.
-
Thiếu sắt: nếu thiếu quá nhiều sắt gây bệnh thiếu máu,
ở phụ nữ bệnh nầy dẫn đến tử vong khi sinh nở.
-
Thiếu Iod: gây bệnh bướu cổ thường gặp ở các cư dân
thuộc vùng núi ở Châu Mỹ La Tinh, Châu Á và Phi Châu. Thiếu Iod cũng là nguyên nhân gây bệnh câm điếc
ở trẻ em.
b.
Bội dinh dưỡng
Bên
cạnh hàng tỉ người thiếu ăn hoặc khẩu phần ăn thiếu chất
dinh dưỡng cũng có hàng chục triệu người sống ở các quốc gia
thuộc Châu Âu, Bắc Mỹ, Châu Úc và Tân Tây Lan..., sử dụng
khẩu phần ăn thừa thải, thậm chí quá thừa thải chất dinh dưỡng
mà ta có thể gọi đó là bội dinh dưỡng.
Ăn uống thừa thải hẳn cũng không phải là điều dễ
chịu và không nên nghĩ rằng một người được ăn uống tốt là
người chỉ ăn những thức ăn ngon và thừa thải so với nhu cầu
về protein, carbohydrate, dầu mỡ, vitamin và khoáng chất.
Ăn
quá nhiều và quá thừa dinh dưỡng cũng có khả năng mắc nhiều
bệnh nguy hiểm và cũng có thể làm tăng tỉ lệ tử vong. Các bác
sĩ ở Hoa Kỳ cho rằng vấn đề cơ bản của việc bảo vệ sức
khỏe cho dân cư nước họ không phải là bệnh ung thư cũng không
phải là bệnh viêm thủng mà là sự dư thừa về trọng lượng
của cơ thể gây nên gọi là hội chứng béo phì.
Trước
tình hình gia tăng dân số, nguồn tài nguyên ngày càng suy thoái và
cạn kiệt, bên cạnh đó là thiên tai, dịch bệnh, chiến tranh
xảy ra ở nhiều nơi trên thế giới, sản xuất lương thực thực
phẩm không đủ cung ứng cho dân số ngày càng đông.
Tình hình xảy ra nghiêm trọng đến nổi có thể nghĩ tới
nạn "đói khu vực"và hiện tại có khoảng 1/3 dân số
thế giới ăn chưa tốt, mà số nầy lại nằm trong các quốc gia kém
phát triển và lại có tốc độ tăng dân số rất nhanh.
Tổ
chức lương nông thế giới (FAO) ước tính rằng, đến năm 2000 dân
số thế giới có thể đạt tới 6,1 tỉ người.
Ðể thỏa mản nhu cầu lương thực và thực phẩm ở giai đoạn
hiện nay (1987) thì sản lượng lương thực phải tăng 100% và sản
phẩm có nguồn gốc động vật phải tăng 200%. Như vậy, nếu
giử ở mức độ nầy thì đến năm 2000 số người bị thiếu ăn
tăng lên từ 2 tỉ đến 3 tỉ người.
Ðứng
trước nguy cơ nghiêm trọng của nạn đói có thể xảy ra, nhiều
quốc gia và nhất là những quốc gia chậm phát triển mà có tỉ
lệ gia tăng dân số cao đã đưa quốc sách "Dân số và kế
hoạch hóa gia đình" lên hàng đầu; nếu thực hiện được điều
nầy thì nó trở thành một nhân tố tích cực hạn chế nguy cơ
của nạn đói.
Ðồng
thời để có thể gia tăng lương thực thực phẩm, mỗi quốc gia
đều phải chính sách bảo vệ các nguồn tài nguyên, chống lại
những hoạt động làm suy thoái và ô nhiểm làm hủy hoại hoặc
cạn kiệt các nguồn tài nguyên. Muốn làm tốt được điều nầy
phải huy hoạch, sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên đồng
thời giáo dục nâng cao hiểu biết cho nhân dân nhận thức được
tầm quan trọng của các nguồn tài nguyên và hậu quả nghiêm
trọng xảy ra khi tàn phá nó.
III. GIA TĂNG SẢN XUẤT LƯƠNG THỰC THỰC PHẨM
a.
Cách mạng xanh
Hầu
hết các chuyên gia trong lĩnh vực chọn giống đều đồng ý
rằng, muốn nâng cao năng suất cây trồng cần phải tuyển chọn
được những giống cây trồng mới có khả năng thích ứng được
với điều kiện khí hậu, đất đai, kháng được các loài sâu
bệnh và có bộ gen cho năng suất cao nhất.
Ðể thực hiện được điều nầy thì cần phải cải tiến
những giống cây trồng hiện có bằng nhiều phương pháp khác nhau
và phương pháp được nhiều nhà chuyên môn chấp nhận là cho lai
chúng với những loài hoang dại rồi tiến hành tuyển chọn.
Một số quốc gia đã thực hiện
phương pháp nầy và nhận được kết qủa đáng khích lệ
đó là cuộc cách mạng xanh của
nhân loại.
Từ
những năm 1950 đến 1970, cách mạng xanh đã tạo được kết quả
thuyết phục ở Hoa kỳ và các quốc gia phát triển. Từ
năm 1967, những quốc gia kém phát triển như Mexico, Âún Ðộ,
Pakistan, Philippin và Thổ Nhỉ Kỳ sau 30 năm nghiên cứu cải tiến
tính di truyềún và qua các thí nghiệm đã tuyển chọn thành
công những giống lúa nước và lúa mì mới có các đặc tính
tốt như ngắn ngày, thân thấp, cho năng suất cao và thích nghi được
với khí hậu nhiệt đới và cận
nhiệt đới.
Trong
những năm gần đây cách
mạng xanh đã đem lại nhũng kết quả quan trọng
đối với nhiều loại cây trồng khác, chẳng hạn như thứ
Ngô lai là một thí dụ điển hình đã cho thấy sau 15 vụ hè ta
thấy năng suất tăng từ 50% - 75%(
Cao Liêm, 1990)....
b.
Một số yếu tố giới hạn của cách mạng xanh
Giống
mới có tính di truyền ổn định là điều kiện cần có để gia
tăng sản lượng lương thực. Tuy
nhiên sự gia tăng sản lượng lương thực còn phụ thuộc vào
nhiều yếu tố khác nữa như nước, phân bón, dịch hại.... , đó
là những yếu tố hạn chế của cách mạng xanh
* Nước: là yếu tố
hạn chế quan trọng nhất đối với cách mạng xanh. Ta biết rằng
lượng mưa không phân phối
đồng đều cho các nơi trên thế giới,
ở những vùng khô như sa mạc và bán sa mạc hoặc ở những
vùng mà vũ lượng mưa thấp đều ảnh hưởng ngay đến năng
suất cây trồng; chẳng những không làm tăng năng suất mà còn làm
giảm năng suất cây trồng. Do
đó cách mạng xanh chỉ có hiệu qủa cao ở những vùng có lượng
mưa tương đối và có hệ thống thủy lợi tốt.
* Phân bón: Phân bón là
yếu tố ảnh hưởng đến năng suất mặc dù là giống mới cho năng
suất cao đi nữa. Ở một
số quốc gia , chẳng hạn như một số vùng của Âún Ðộ thì đất
canh tác rất nghèo chất dinh dưỡng nhất là chất đạm, vì thế
khi canh tác trên những vùng nầy phải sử dụng nhiều phân bón
rất tốn kém. Trong trường hợp nầy các nhà chuyên môn khuyến cáo
rằng thay vì trồng lúa hay lúa mì thì nên thay thế trồng các cây
thuộc họ đậu, vì các cây nầy có vi khuẩn cố định đạm
(Rhizobium sp.) sống cộng sinh trong các nốt rể, chúng có khả năng
thu lấy đạm tự do trong không khí để tổng hợp nên đạm hữu
cơ. Khi cây đậu chết, các chất đạm hữu cơ nầy trả
lại cho đất và được các vi sinh vật phân hủy thành
những chất dinh dưỡng làm cho đất càng ngày càng dồi dào thêm
chất dinh dưỡng.
* Dịch hại: đây cũng là một yếu tố không kém phần quan
trọng trong sản xuất lương
thực thực phẩm vì nó làm giảm năng suất của cây trồng nên
hạn chế hiệu quả của cách mạng xanh. Một số các loài côn trùng,
giun tròn và nấm...có tác động phá
hoại mùa màng gây thiệt hại nghiêm trọng, đặc biệt là côn trùng.
Côn trùng thường gây tác hại nhiều ở vùng độc canh,
trong trường hợp nầy nếu sự cân bằng sinh thái bị phá vở,
một số kẻ thù tự nhiên của những côn trùng có hại bị biến
mất và do đó không thể ngăn cản chúng phát triển mạnh mẽ
với số lượng lớn. Cào
cào là một thí dụ điển hình, chúng có khả năng sinh sản với
một tốc độ lớn, con cái đẻ trong đất có thể tới 20.000
trứng trên 1m2, chúng thường tập trung lại thành đàn khổng lồ,
mà khi cả đàn bay lên có thể kéo tới 80km chiều dài và với
chừng ấy chiều ngang tạo nên một đám mây cào cào phủ kín
bầu trời. Khi đàn cào cào
hạ cánh xuống đất, sinh khối của nó có thể đạt tới 1.750
tấn/ha và mỗi ngày chúng có thể ngốn một lượng cây xanh có
trọng lượng tương đương với trọng lượng cơ thể của chúng,
nên thường để lại một bãi hoang vu nơi chúng đáp xuống.
Các
nhà chuyên môn ước tính rằng hằng năm trên toàn thế giới, côn
trùng đã phá hủy khoảng 33 triệu tấn lúa mì và lúa gạo nghĩa
là bằng một lượng lương thực đủ để nuôi sống 150 triệu người
trong một năm.
Ngoài
côn trùng ra thì một số loài chim và thú cũng có khả năng phá
hoại mùa màng như chim Ri (Ploccus baya), chim Sẻ lửa ở Châu Phi nó
được xếp thứ hai sau cào cào về mức độ thiệt hại; thỏ ,
chuột, lợn rừng.. cũng gây
thiệt hại mùa màng ở một số vùng rất đáng kể.
Nấm, virus và giun tròn ...cũng là những tác nhân gây bệnh cây
ảnh hưởng đến năng suất cây trồng.
Sự
giảm sút nguồn lương thực và thực phẩm còn xảy ra trong khâu
bảo quản là do các loài mọt gạo, mọt bột, chuột, các loài
nấm mốc... Có tài liệu cho
rằng, năm 1959 trong số 856 triệu tấn ngủ cốc thu hoạch được
trên toàn thế giới (trừ Liên Xô) thì bị giảm đi 10% do khâu
bảo quản, sự thiệt hại do bảo quản tương đương với 85
triệu tấn, một lượng lương thực đủ để nuôi sống 300
triệu người trong vòng một năm .
Trong
một thời gian dài con người đã sử dụng nhiều loại thuốc
bảo vệ thực vật dể diệt trừ chúng; ở giai đoạn đầu
thuốc tỏ ra có hiệu quả rõ rệt nhưng càng về sau thì hiệu
quả càng kém dần vì do sự phát sinh tính kháng ở một số loài
dịch hại đối với nhiều loại thuốc. Như vậy ngoài sự chi phí
tốn kém khi sử dụng thuốc sát trùng, thuốc còn làm ô nhiểm môi
trường nước, đất và không khí; trực tiếp và gián tiếp ảnh
hưởng đến sức khoẻ của con người.
Diện
tích đất sử dụng cho canh tác nông nghiệp chiếm tỉ lệ rất
thấp; như ta đã biết khoảng
51%diện tích của các lục điạ không sử dụng đựơc cho nông
nghiệp vì bị tuyết và băng hà bao phủ cùng với những vùng đài
nguyên, núi cao và sa mạc; 28% đất có khả năng canh tác nông
nghiệp mà con người chưa có khả năng khai phá trong đó có 8% đất
rừng mưa nhiệt đới và 20% đất khô thuộc vùng hoang mạc và bán
hoang mạc; chỉ có khoảng 21% đất được con người đã và đang
canh tác trong đó có 10% sử dụng cho chăn nuôi và 11% cho trồng
trọt; nhưng diện tích đất nầy
càng ngày càng bị thu hẹp dần vì bị suy thoái và trở nên hoang
hóa hoặc bị chuyển hóa thành đất phi nông nghiệp.
Như
vậy để có đủ lương
thực và thực phẩm nuôi sống nhân loại và có khả năng tránh
được nguy cơ của nạn đói thì một mặt phải mở rộng thêm
diện tích đất canh tác, mặt khác phải phục hồi lại đất
trồng trọt bị suy thoái và hoang hóa.
* Mở rộng diện tích đất canh tác
- Khai thác đất thuộc các vùng hoang mạc và bán hoang mạc có
thể sử
dụng được với điều kiện là phải tiến hành việc dẫn nước
rất nhiều và rất tốn kém. Ở
những vùng nầy lượng mưa tương đối rất ít và không đều nên
thảm thực vật ở đây rất nghèo và thưa thớt; thành phần hóa
học của đất khá cố định: chúng
nghèo chất hữu cơ do đó nghèo chất đạm và cả lân nữa, rất
ít các nguyên tố vi lượng cần thiết cho sự phát triển của cây
như sắt và kẻm....Hơn nữa, ở những vùng nầy có nhiệt độ tương
đối cao làm nước trong lớp đất mặt bị bốc hơi mạnh, nước
ngầm bên dưới dâng lên mang theo nhiều muối hòa tan làm cho đất
bị hóa mặn.
Vì
vậy, để canh tác có hiệu
quả trên những vùng đất nầy thì ngoài việc cần nước tưới
ra còn phải sử dụng phân bón và rửa mặn cho đất và chỉ nên
canh tác ở những nơi trủng vì nơi đây thường chưá nhiều phù
sa, đồng thời phải biến dòng chảy của nước bằng những công
trình xây dựng để dự trử nước và sử dụng nó trong thời
gian không mưa.
Mặt
khác các loại cây trồng được sử dụng trồng ở vùng nầy
phải có khả năng sinh trưởng và phát triển trong điều kiện môi
trường bất lợi về nhiệt độ và độ ẩm như vỏ của hột
phải cứng và có khả năng nẩy mầm trong thời gian không có đủ
lượng mưa. Ngoài ra bên
cạnh những cây trồng chính cần phải trồng thêm những cây cho
phân xanh tốt như các cây thuộc họ Ðậu để bồi bổ thêm
chất dinh dưỡng cho đất. Những
cây thường được trồng trên các hoang mạc hiện nay ở Israel như
Chà Là (Pheonix dactylifera) có
khả năng chịu đựng được đất mặn 0,3%, Bấc (Yuncus maritinus)
cây nầy được trồng để sử dụng làm giấy...
- Lấn biển: đã được thực hiện ở một số quốc gia ,
điển hình nhất là ở Hòa
Lan, như vùng Zuydecze vào
thời Trung cổ vùng nầy là một hồ kín trong đất liền và được
tách ra khỏi biển nhờ một dãy đất hẹp.
Sau đó dãy đất nầy bị thủy triều và sóng biển phá
hủy và rồi vùng nầy trở thành một hải cảng nhộn nhịp.
Trải qua một thời gian dài các nhánh sông nối liền biển với
hồ nầy bị lấp đầy cát, thế là đến đầu thế kỷ 20 nó
trở thành một cái hồ chết không còn lợi ích gì mà nước của
nó lại tràn ngập các vùng chung quanh theo chu kỳ hằng năm.
Một dự án cải tạo vùng nầy được đặt ra và thực
hiện bao gồm việc xây dựng một đập chắn ở phiá bắc của
thị trấn và việc cải tạo đất; để cải tạo đất trước tiên
là phải tát cạn 5 vùng đất thấp với diện tích khoảng 220.000
ha và xây dựng một hồ chứa nước ngọt nhân tạo với diện tích
125.000 ha. Các công trình tát
nước, rữa mặn, thoát nước và các biện pháp hoàn thiện đất
đã biến vùng nầy thành một vùng đất màu mở; ngày nay nó là nơi
cung cấp các sản phẩm nông nghiệp sử dụng trong nước và xuất
khẩu sang các nước khác, bao gồm các loại ngủ cốc như lúa mì,
lúa mạch, yến mạch, ngô cùng với các loại hoa màu khác như cà
chua, củ cải đường, cải dầu, cây thức ăn gia súc, các loại
hoa tươi....
*Một
số biện pháp khác: Ngoài việc mở rộng diện tích đất canh tác
ra còn có
nhiều biện pháp khác nhằm gia tăng nguồn lương thực như phục
hồi lại diện tích đất trồng trọt trước đây nay đã bị
hoang hóa, trồng cây lương thực thay thế cho cây công nghiệp...
- Phục hồi đất canh tác đã bị hoang hóa
Các
hoạt động phá rừng lấy gổ hoặc lấy đất canh tác, sự chăn
thả quá mức....là nguyên nhân dẩn đến sự xói mòn đất do gió
và do nước và hậu qủa là đất càng ngày càng bị suy thoái và
trở thành hoang hóa. Ðể có
thể phục hồi lại những vùng đất nầy con người đã thực
hiện nhiều biện pháp như trồng
rừng trên các đỉnh đồi trọc, trên các sườn dốc nhằm hạn
chế tốc độ xói mòn của dòng chảy và đồng thời điều hòa
được lượng nước để sử dụng trong mùa khô hạn; trồng
những hàng cây chắn gió; ở những triền dốc thì san ruộng thành
hình bậc thang; trồng những cây hoa màu phụ để phủ kín mặt đất
và đồng thời phục hồi lại độ phì của đất nhờ vào phân bón.
-
Trồng cây lương thực thay thế cây công nghiệp
Ở
một số quốc gia, để gia tăng sản lượng lương thực người ta
đã trồng những cây lương thực thay thế cho những cây công
nghiệp. Thí dụ như ở Hoa
Kỳ, nhờ thành tựu trong lĩnh vực công nghệ người ta đã sản
xuất được các loại sợi hóa học thay thế cho sợi từ bông
vải nên những vùng đất trồng bông xưa kia được thay thế
trồng cây lương thực, còn ở Nhật Bản thì chấm dứt trồng dâu.
Công
nghiệp đánh cá và khai thác các nguồn lợi thủy sản khác hằng
năm cung cấp khoảng 6% lượng protein cho con người; 24% lượng
protein còn lại là do các loài động vật nuôi cung cấp từ thịt,
bơ, sửa và trứng. Ngoài protein ra, các loài thủy sản
còn cung cấp những nguyên tố vi lượng rất cần thiết cho
cơ thể như sắt, iod và calcium.
Phần
lớn thủy sản được khai thác
từ biển và chủ yếu là ở thềm lục địa chiếm 91% tổng sản
lượng khai thác và 9% còn lại được khai thác từ nước ngọt trên
các lục địa. Sản phẩm
khai thác gồm 3 nhóm chính là: cá, tôm-cua và sò-ốc.
Nhờ
những phương tiện đánh bắt càng ngày càng được trang bị
hiện đại và chính xác (trước đây
người ta sử dụng phương pháp SONAR để xác định nơi tập trung
của cá để bủa lưới, sau đó sử dụng không ảnh, máy tầm ngư
hoặc đo nhiệt độ nước ở ngư trường...)
nên sản lượng đánh bắt được hằng năm càng tăng lên.
Theo số liệu thống kê thì từ 1950 đến 1970 sản lượng đánh
bắt tăng từ 23 triệu tấn đến 77 triệu tấn. Sau thời gian nầy
mặc dù sản lượng đánh bắt có tăng nhưng không đáng kể. Nhưng
kể từ năm 1987 đến nay thì sản lượng đánh bắt ngày càng
giảm, nguyên nhân là do môi trường biển có nhiều biến đổi,
sự cạn kiệt nguồn cá do sự đánh bắt quá mức và không có
chọn lọc cùng với sự ô nhiểm và sự phá hủy các vùng cửa sông
và các vùng ven bờ biển. Theo
FAO (1985) do sự khai thác quá mức mà hiện nay trên thế giới có
12 loài cá có giá trị thương mại bị cạn kiệt và khó có khả
năng phục hồi; ở Peru trong
thời gian từ 1971-1978 do sự đánh bắt không kiểm soát được đã
làm cho loài cá Trổng (Anchovy) sống ở vùng nước trồi ven biển
không còn nữa.
Trước
tình hình sản lượng cá và các nguồn lợi thủy sản đánh bắt
được ngày càng giảm trong khi đó dân số trên thế giới ngày càng
tăng, đây là vấn đề cần
được quan tâm là bằng cách nào gia tăng được sản lượng đánh
bắt để cung ứng đủ cho nhân
loại trong khoảng thời gian tới?.
Các
nhà chuyên môn đưa ra nhiều biện pháp khác nhau trong đó có 3
biện pháp chính là phục hồi nguồn tài nguyên thủy sản ven các
lục điạ , mở rộng ngư trường đánh bắt và gia tăng nuôi cá và
các thủy sản khác.
* Phục hồi nguồn tài nguyên thủy sàn ven lục điạ:
Hiện
nay việc đánh cá chủ yếu tiến hành ở các vùng có nhiều sinh
vật hơn cả, tức là những vùng có nước xanh dâng lên trên
thềm lục điạ và hình thành một dãy hẹp chừng 30km dọc theo các
bờ biển. Những người đánh
cá có nhiều kinh nghiệm cho biết rằng hiện nay ở các vùng ven
bờ có khoảng 17 nghìn loài cá
khác nhau, trong đó có những loài cá có giá trị thương mại có
số lượng giảm rõ rệt có thể kể như: nhóm cá Trích (Sardin,
Anchovy, Heming, Mackerei..),ü nhóm cá
Hồi (Salmon), nhóm cá Bơn,
nhóm cá Nùng nục (cá Thu, cá Ngừ).
Ðể
có thể gia tăng sản lượng đánh bắt trong thời gian tới thì
mỗi quốc gia có nguồn tài nguyên nầy phải kiểm soát chặt chẻ
việc đánh bắt hợp lý, chống vi phạm cân bằng sinh học do khai
thác những loài cá quý một cách bất hợp lý; bổ sung khai thác
những loài cá hiện nay có thể sử dụng
mà chưa được khai thác vì những lý do là sản lượng khai
thác thấp hoặc điạ hình không thuận lợi cho sự khai thác.
Mặt
khác, để có thể gia tăng
sản lượng đánh bắt còn có thể thực hiện bằng cách bón phân
cho vùng thềm lục điạ nhằm làm gia tăng sản lượng thực vật
phù du; chẳng hạn như ở Scotland người ta làm thí nghiệm bón
200kg superphosphate và 300kg muối Nitrat trên
7 ha mặt biển, sau một tháng đã tăng số lượng thực vật
phù du từ 2.000 đến 8.000 cá thể trong m3 (Gross, 1941), điều nầy
kích thích sự sinh trưởng của cá Bơn sau 13 tháng tuổi có kích
cở bằng kích cở của cá 2 tuổi hoặc
4 tuổi.
*
Mở rộng ngư trường đánh
bắt:
Ở
thềm lục điạ, nơi mà nghề cá hết sức tập trung thì đáy đại
dương là một thế giới ít được biết đến, nó bao gồn
khoảng 7.000 loài cá sống trong vùng biển chưa được nghiên cứu;
hệ động vật ở đáy sâu của đại dương là nguồn dự trử
protein rất lớn. Nguồn dự
trử to lớn của hệ động vật trên mặt và đáy các đại dương
vừa mới được nghiên cứu.
Các
nhà khảo cứu cho biết rằng sự tồn tại của hệ động vật
biển sâu và sâu thẳm rất quan trọng bao gồm các loài giáp xác,
cá phát sáng, cá Tuyết đuôi dài..., những hiểu biết của chúng
ta về chúng rất ít. Theo Guerrin (1959) thì nếu nền công nghiệp đánh
cá phát triển về mặt kỹ thuật khai thác tới những nơi nầy thì
có thể khả năng đạt được tới 225 triệu tấn cá mỗi năm, đây
là một triển vọng đầy hứa hẹn.
*Gia tăng nuôi cá và các thủy sản khác:
-
Nuôi cá nước mặn: Trên các
bờ biển dốc thoai thoải và đặc biệt là ở những chổ
cửa biển và đất liền xen kẽ nhau thường hình thành những hệ
sinh thái biển phong phú nhất mà trong hệ nầy các nguyên tố khoáng
không ngừng tham gia do chúng luôn được phóng thích từ đất trong
quá trình rửa trôi và xói mòn. Nếu
một khu vực nào đó ngăn cách tốt với biển thì có thể xây
dựng các cơ sở chăn nuôi cá, điều nầy đã được thực hiện
ở một số nơi nhất là ở các quốc gia đã thu được kết quả
đáng kể là sản lượng có thể đạt 12 tấn cho mỗi ha.
Ngoài cá ra cũng còn có
thể nuôi các loài thủy sản khác có giá trị kinh tế như: sò,
ốc, các loài tôm cua...
- Nuôi cá nước ngọt: Nghề nuôi cá nước ngọt cũng đòi
hỏi phương pháp chăm
sóc một cách khoa học trên cơ sở nghiên cứu sâu về hệ sinh thái
nước ngọt. Hiện nay nghề
nuôi cá nước ngọt phát triển ở một số quốc gia, nguời ta
thả cá bột vào các hồ nhân tạo chứa nước dùng để sử dụng cho thủy điện hoặc tưới tiêu, thả vào
các ruộng lúa hoặc vào trong các bè nổi trên sông...nuôi chúng
bằng thức ăn và sau một thời gian sẽ tiến hành thu hoạch.
Ở
Catanga người ta thả cá vào các hồ nhân tạo rất lớn và hằng
năm thu hoạch được khoảng 50.000 tấn cá các loại (Symoens, 1961),
ở Nhật Bản người ta thả cá vào những cánh đồng lúa với
diện tích chừng 50.000 ha và hằng năm thu được khoàng 5,5 triệu
tấn cá Chép; còn ở Việt Nam, nghể nuôi cá nước ngọt trong các
ao mương rất phổ biến và chỉ mang tính chất gia đình nên lợi
tức không cao. Hiện nay, nghề nuôi cá trong các bè nổi trên sông
và nuôi trong các ruộng lúa đang phát triển mạnh ở một số địa
phương, một số ít sản phẩm thu được sử dụng trong nước và
phần lớn được xuất khẩu mang lại một nguồn lợi tức đáng
kể.
Ở
những quốc gia nghèo và các quốc gia đang phát triển thì phần
lớn người dân sử dụng những sản phẩm nông nghiệp mà họ thu
hoạch được. Trong khi đó ở các quốc gia phát triển người ta
sử dụng các sản phẩm nông nghiệp đã được chế biến sẳn và
được bày bán trong các cửa hiệu thực phẩm và các siêu thị. Hầu hết những thực phẩm nầy đã được bổ
sung những gia vị có tác dụng kéo dài thời gian sử dụng, làm tăng
thêm mùi vị, màu sắc phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng
và có chất lượng cao hơn nhờ được bổ sung nhiều loại khoáng
chất và các vitamin cần thiết cho cơ thể con người.
Tuy
nhiên, các loại thực phẩm
nầy cũng chỉ được sử dụng trong một khoảng thời gian nhất
định nào đó, nếu vượt quá thời hạn sử dụng thì thực
phẩm đó có thể trở nên độc đối với con người. Vì vậy khi
những loại thực phẩm nào gần hết hạn sử dụng thì sẽ được
các cửa hiệu thực phẩm thường phải bán giảm giá.
Hầu hết các thực phẩm đều được thêm vào những hợp chất hóa học tổng hợp nhân tạo như ở Hoa Kỳ người ta đã tính được có khoảng 2.800 loại hợp chất hoá học được sử dụng trong công nghệ chế biến thực phẩm. Mỗi năm trung bình một người dân của Hoa Kỳ đã sử dụng khoảng 55kg đường, 7kg muối và khoảng 4,5 kg những gia vị có trong các loại thực phẩm chế biến, và mỗi ngày trung bình một người sử dụng 1 muổng nhỏ (cở muổng cà phê) màu, mùi và chất bảo quản nhân tạo (Miller, 1988).