_______________________________________________________________________________________________
TÀI
NGUYÊN SINH HỌC
Cùng với nguồn tài nguyên đất và nước, Thực vật và Ðộng
vật cũng là loại tài nguyên có khả năng tái sinh và có vai trò
quan trọng trong sự tồn tại và phát triển của con người như
cung cấp nguồn nguyên liệu, nhiên liệu, các hợp chất hóa học,
lương thực và thực phẩm, bảo vệ sự trong lành của không khí,
chống lại sự xói mòn đất đồng thời đáp ứng được nhiều
nhu cầu khác nữa. Do có vai
trò quan trọng đó nên việc sử dụng, bảo vệ và phát triển
nguồn tài nguyên này là một việc làm cấp thiết đối với mỗi
quốc gia hiện nay trên thế giới.
Rừng
là một hệ thống phức tạp bao gồm các yếu tố lý học, hóa
học và sinh học tác động qua lại với nhau, là một tổng thể
của khí hậu, đất đai, động vật, thực vật và vi sinh vật;
đó là một siêu cơ thể tiến hóa tương đối chậm chạp,
tham gia vào các chu trình C, O2, N2, H2O và của nhiều loại chất khoáng
khác. Ngoài ra rừng còn có vai trò quan trọng trong
việc điều hòa khí hậu, giữ nước chống xói mòn đất,
chống lũ lụt, chống sa mạc hóa, chắn
gió và bảo vệ mùa màng...
a.
Rừng với khí quyển
Khí
quyển và sự sống trên hành tinh là 1 thể thống nhất do những
điều kiện cơ bản trong thành phần cấu tạo của nó.
Thành phần khí trong khí quyển trên trái đất hầu như không
thay đổi mặc dù chúng liên tục bị hấp thụ hoặc gắn vào các
kết hợp hóa học trong các chu trình Sinh Ðịa Hóa của tự nhiên,
đều có vai trò đóng góp của rừng.
Vai
trò quan trọng nhất của rừng đối với khí quyển là sự cung
cấp oxy, oxy là nhân tố đặc biệt quan trọng cho sự tồn tại
của sinh vật. Thành phần oxy trong không khí không đổi mặc dù
oxy liên tục đi vào các phản ứng oxy hóa dưới nhiều dạng khác
nhau như đảm bảo cho quá trình hô hấp của động vật và thực
vật, sự biến đổi các hợp chất hữu cơ và tham gia hàng loạt
các phản ứng hóa học trong tự nhiên.... Lượng oxy của khí
quyển bị mất đi sẽ được hoàn trả lại bằng con đường
quang hợp của cây xanh. Người
ta tính rằng, hằng năm bằng con đường quang hợp, cây xanh đã
tạo ra khoảng 1011 tấn chất
hữu cơ và để thoát ra ngoài khí quyển một lượng oxy tự do tương
đương như thế; trong số nầy cây rừng đảm đương phần lớn.
Như vậy rừng là nhân tố chủ yếu tham gia vào việc giử cán
cân oxy trong thành phần của khí quyển.
Ngoài
vai trò cung cấp oxy cho khí quyển, rừng còn là màng lọc không khí
trong lành như cản khói bụi,
hạn chế nhiều loại vi khuẩn và siêu vi khuẩn gây
hại cho con người và các động vật. Ngoài ra rừng còn có vai trò
quan trọng trong sự điều hòa khí hậu của quả đất.
Vì vậy, rừng được xem là lá phổi xanh của quả đất
b.
Rừng đối với đất
Rừng và đất có mối quan hệ mật thiết với nhau thể
hiện bởi rừng tham gia vào quá trình hình thành và phát triển đất;
ngược lại đất là cơ sở duy trì sự tồn tại và phát triển
của rừng. Hệ thống đất-rừng
đảm nhiệm chức năng quan trọng là yếu tố tối cần thiết cho
sự sống của con người và các động vật khác.
Rừng
lấy chất dinh dưỡng từ đất để phát triển; các cành, lá
rụng xuống sẽ được các vi sinh vật phân hủy thành mùn và mùn
tiếp tục được khoáng hoá cho ra những chất dinh dưỡng mới
cung cấp lại cho cây. Theo sự ước tính, dưới tán lá rừng thuần loại 5-6 tuổi, thì lượng
cành, lá rụng hằng năm trung bình từ 5-10 tấn/ha tương đương
với khoảng 80-90 kg N2, 8 kg P2O5 và 8 kg K2O (Nguyễn Văn Trương,
1989).
Quá
trình sinh học giữa đất và rừng là liên tục, đảm bảo cho độ
phì nhiêu của đất và cho cả năng suất sinh học của rừng.
Tuần hoàn sinh học trong hệ sinh thái rừng sẽ ở trạng thái cân
bằng bền vững nếu như không có sự can thiệp của con người.
Rừng
phản ánh tính chất của đất: Tùy
theo từng loại đất và điều kiện địa hình
khác nhau sẽ hình thành nên những loại rừng khác nhau. Rừng
ngập mặn ở vùng duyên hải có những loài cây khác hẳn với
rừng đồi núi, mặc dù ở trong cùng một đai khí hậu nhiệt đới.
Thí
dụ: ở rừng ngập mặn chúng
ta gặp các loài thực vật đặc trưng cho đất ngập mặn mà
những thực vật nầy ta không gặp chúng ở vùng đồi núi... Từ
bờ biển vào nội điạ, đất cao dần và độ mặn thấp dần nên
các loài thực vật sinh trưởng trên những vùng đất đó cũng khác
nhau: trên đất lầy ven biển là Mắm, những cây tiếp đến là Ðước,
Vẹt vào sâu nữa là Cốc, Dà và trên đất khô là Chà là....
Những loài thực vật xác định tính chất của đất có thể xem
là các thực vật chỉ thị.
Rừng
bảo vệ cho đất chống lại sự xói mòn:
ở những nơi đất có độ dốc cao và
lượng mưa lớn thì tốc độ xói mòn của mưa và của các dòng
chảy trên mặt đất sẽ càng lớn. Vì vậy rừng có vai trò quan trọng trong sự bảo
vệ lớp đất mặt chống lại sự xói mòn do nước và do gió, vì
lớp cành và lá mục có thể giữ được nước; thân và rể cây
có khả năng ngăn cản
được phần nào tốc độ của dòng chảy, các tàng lá có
khả năng chắn gió và phân tán các hạt nước mưa bảo vệ được
lớp đất mặt tránh được sự tác
động xói mòn khi hạt mưa rơi
xuống..., như vậy rừng là cơ cấu hữu hiệu nhất giữ lại được
lớp đất mặt vốn dể bị cuốn trôi.
Do đó các hoạt động của con người như phá rừng để
lấy gỗ, để lấy đất canh tác... là nguyên nhân làm cho đất
bị xói mòn trở thành bạc màu và hoang hóa.
c.
Rừng đối với mùa màng
Ðối
với mùa màng, rừng có vai trò trực tiếp hoặc gián tiếp đến năng
suất của cây trồng và vật nuôi thể hiện ở các mặt sau:
-
Rừng có tác động che chắn gió, cường độ mưa rơi, cường độ
dòng chảy... nên hạn chế xói mòn đất, bảo toàn được chất
dinh dưỡng trong đất cung cấp cho cây trồng.
-
Rừng cung cấp chất dinh dưỡng cho đất làm tăng độ phì của đất
giúp cho cây trồng phát triển.
-
Rừng giữ nhiệt độ
cho tầng đất mặt và lớp khí quyển sát với tầng đất mặt,
điều hòa tiểu khí hậu giúp cho cây trồng phát triển thuận
lợi.
-
Rừng điều hòa nhiệt độ nên làm giảm sự thoát hơi nước
của cây, sự bốc hơi nước của đất và giữ lại nước trong
đất giúp cho sự hòa tan chất dinh dưỡng, nhờ đó mà rể cây
hấp thụ được dể dàng.
-
Rừng ngăn chận được các luồng gió mạnh, chắn rét cho đàn
gia súc, giúp cho cây trồng tránh được sự gãy đổ.
-
Rừng còn cung cấp chất đốt cho việc sấy hoa màu, lương
thực, chế biến thực phẩm...
d.
Rừng cung cấp nguồn gen quý
Trong
thập kỷ 80, các nghiên cứu quốc tế về tài nguyên rừng cho
thấy các tài nguyên động vật và thực vật quí của nhân loại
phần lớn tập trung ở trong các rừng nhiệt đới (FAO, 1984), trong
đó rừng nhiệt đới Châu Á có nhiều loại cây và con có giá
trị quí giá nhất hay nói khác đi là rừng nhiệt đới là một ngân
hàng tài nguyên gen to lớn và đa dạng.
Từ
các nghiên cứu đó, để nâng cao hiệu quả trong sản xuất
nông- lâm nghiệp, các nhà di truyền học đang tập trung nghiên
cứu nguồn tài nguyên gen thực - động vật nhằm để phát hiện
các gen quý, để bảo tồn và phát huy những đặc tính di truyền
quí giá của chúng hướng chúng vào việc phục vụ lợi ích của
con người.
Hiện
nay do nhu cầu phát triển kinh tế và xã hội của mỗi quốc gia mà
rừng càng ngày càng bị tàn phá nặng nề, nhất là các khu rừng
nhiệt đới, nay đã đến mức báo động. Vì vậy để bảo tồn
được nguồn gen quý hiếm nầy, trước tiên là phải kêu gọi các
quốc gia có nguồn tài nguyên quí giá đó hãy vì lợi ích chung
của cả nhân loại mà ra sức bảo vệ để nguồn gen quý giá đó
sẽ trở thành vô giá.
e.
Các lợi ích khác của rừng
Trong
các phần trình bày ở trên cho ta thấy được vai trò chung của
rừng trong một số mặt chủ yếu. Ngoài ra rừng còn có nhiều vai
trò khác nữa trong cuộc sống của con người:
-
Rừng
là nguồn cung cấp gỗ và các sản phẩm của gỗ: rừng cung cấp
gổ được sử dụng
làm vật liệu xây dựng, vật liệu trang trí, là nguồn cung cấp các
sản phẩm hóa học, cung cấp
sợi dệt, làm bột giấy, lấy tinh dầu, nhựa cây, thuốc
nhuộm...Theo số liệu của nhiều tài liệu cho thấy bình quân trên
toàn thế giới có 45% lượng gổ khai thác được con người sử
dụng làm chất đốt, 35%dùng cho xây dựng và trang trí, 12% sử
dụng làm bột giấy và số còn lại được sử dụng cho nhiều
nhu cầu khác của con người.
-
Rừng
là nguồn cung cấp và điều hòa nguồn nước ngọt: ở những vùng
có lượng
mưa nhiều; vào mùa mưa, nước mưa được giử lại trong thảm lá
mục và trong lớp đất tơi xốp rồi trực di xuống các tầng đất
sâu hơn hình thành nên những mạch nước ngầm, nên ta có thể xem
rừng là kho dự trử nước
và điều phối nguồn nước ngọt cho nhu cầu sinh hoạt và các
hoạt động nông nghiệp của con người vào mùa khô hạn.
-
Rừng
là kho thực phẩm: Rừng là nơi cung cấp những loài thực vật và
động vật
có thể sử dụng làm nguồn lương thực và thực phẩm
cho người. Theo số liệu thống kê cho biết có 62 quốc gia
sử dụng 25% lượng prôtein từ các động vật trong rừng, 19
quốc gia sử dụng 50% lượng protein, Thái Lan: 51%, Philippin: 52%,
Indonesia: 68%... và đặc biệt các nước như Ghana, Congo (Zaire) và
nhiều nước ở Tây và Trung Phi sử dụng đến 75% lượng protein
được lấy từ các động vật rừng.
-
Rừng
có tác dụng chống sự bồi
lấp : rừng giúp cho đất chống lại sự xói mòn,
gián tiếp chống sự bồi lấp lòng sông, hồ, các công trình
thủy điện và các công trình thủy lợi.
-
Rừng
còn là kho thuốc vô giá: rừng có rất nhiều loài thực vật và
động vật có
dược tính được sử dụng làm thuốc phục vụ sức khỏe của
con người.
Hiện
nay, rừng trên toàn thế giới bị con người tàn phá đã thu hẹp
diện tích với một tốc độ rất nhanh nhất là các khu rừng
nhiệt đới. Theo các chuyên gia và các nhà bảo vệ rừng cho biết
hằng năm trên thế giới có khoảng 4,6 triệu ha rừng nhiệt đới
bị phá hủy. Vì các lợi ích nêu trên và vì sự tồn tại và phát
triển của xã hội loài người nên vấn đề đặt ra là mỗi người
trong chúng ta phải có nhiệm
vụ bảo vệ, duy trì và phát triển nguồn tài nguyên nầy.
Rừng
phân bố không đồng đều trên các Châu lục về diện tích cũng
như về thể loại. Tính tổng thể thì rừng chiếm 29% diện tích
của các đại lục tương ứng với 3.837 triệu ha gồm 1.280 triệu
ha rừng thông ở vùng ôn đới và hàn đới, 2.557 triệu ha rừng
rậm ở vùng nhiệt đới và xích đạo.
Bảng
1. Diện tích rừng trên các
Châu lục (Deveze, 1973)
Các
Châu lục |
Diện
tích
rừng (Triệu
ha) |
Tổng
diện
tích rừng
(%) |
Diện
tích
rừng của khu
vực(%) |
Bình quân
theo đầu
người (ha) |
Châu
Âu (Trừ Liên xô cũ)
Liên xô (cũ)
Bắc Mỹ
Mỹ la-tinh
Châu Phi
Châu Á
Châu Ðại dương |
136
743
656
890
801
525 86
|
3,5
19,4
17,1
23,2
20,9
13,7 2,2 |
28,3
33,9
32,3
44,0
27,0
19,8
10,0 |
0,3 3,8 4,2 5,2 3,9 0,4 6,7 |
Tổng
cộng |
3837 |
100% |
29,1 (Trung
bình) |
1,6
(Trung bình) |
Rừng
phản ánh các đai khí hậu thông qua cấu trúc và thành phần của
nó:
-
Ở
vùng cực: do khí hậu quá lạnh nên các cây gổ lớn không phát
triển mà chủ
yếu là rong, nấm, địa y và một số loài thân thào; chúng phát
triển vào 3 tháng mùa hè tạo nên lớp thảm thực vật gọi là đài
nguyên.
-
Ở
vùng ôn đới: do khí hậu ôn hòa hơn và có 4 mùa rõ rệt trong năm
hình thành 3
loại rừng: rừng cây lá kim, rừng hỗn hợp và rừng cây lá
rộng thay lá theo mùa. Ngoài ra ở những nơi thuộc vùng ôn đới có
mùa khô kéo dài, lớp thảm thực vật gồm các loài thân thảo
gọi là thảo nguyên.
-
Ở
vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới: khí hậu nóng ẩm và lượng
mưa nhiều. Rừng
nhiệt đới rất đa dạng về thành phần loài. Phần lớn là cây
lá rộng và lá thường xanh quanh năm,
tạo nên từ 3 - 5 tầng cây thân mộc.
Loại rừng nầy cho năng suất gỗ cao nhất.
-
Ở
vùng khí hậu khô, nóng như sa mạc và bán sa mạc: do nhiệt độ
cao và khô
hạn nên lớp thảm thực vật thưa thớt, nghèo nàn bao gồm các loài
thân thảo, cây bụi, cây gổ nhỏ gọi
là Savane.
Khi
đi từ xích đạo hướng về
cực, thảm thực vật rừng biến đổi về kích thước cây, về
chủng loại và cấu trúc... là do có sự khác biệt về khí hậu
như nhiệt độ, ẩm độ và cường độ chiếu sáng của
mặt trời. Ta cũng thấy sự biến đổi tương tự như vậy
khi đi từ đồng bằng lên dần trên núi cao.
Bảng
2. Diện tích và sức sản
xuất của các loại rừng trên thế giới (Deveze, 1973)
Hệ sinh thái rừng trên thế giới
|
Diện
tích(triệu km2) |
Sức
sản xuất
g/m2/năm |
Rừng rậm
nhiệt đới Rừng thay lá
nhiệt đới Rừng cây lá
kim ôn đới Rừng cây lá
rộng ôn đới Rừng thông phương
Bắc Ðồng cỏ ôn
đới Savane Toundra Sa mạc và bán
sa mạc Hoang
mạc và vùng cực |
17,0
7,5
5,0
7,0 12,0
90,0 15,0
8,0 18,0
24,0
|
2.200 1.600 1.300 1.200 800 600 900 140 90 3 |
Theo
tài liệu của Maurand thì trước năm 1945, Việt Nam có 14 triệu ha
rừng chiếm hơn 42% diện tích tự nhiên của cả nước, năm 1975
diện tích rừng chỉ còn 9,5 triệu ha (chiếm 29% diện tích tự nhiên),
năm 1985 còn 7,8 triệu ha (23,6%) đến năm 1989 chỉ còn 6, 5 triệu
ha (19,7%) (Viện điều tra qui hoạch rừng Việt Nam, 1989).
Do
đất nước ta trải dài từ
bắc xuống nam và điạ hình với nhiều cao độ khác nhau so với
mực nước biển nên rừng phân bố trên
khắp các dạng địa hình, với nét độc đáo của vùng
nhiệt đới và rất đa dạng: có nhiều rừng xanh quanh năm, rừng
già nguyên thủy, rừng cây lá rộng, rừng cây lá kim, rừng thứ
cấp, truông cây bụi và đặc biệt là rừng ngập mặn...
Bảng
3. Tài nguyên rừng ở Việt Nam (Maurand, 1945)
Khu vực |
Diện
tích tự nhiên
( 1.000 ha ) |
Diện tích rừng
( 1.000 ha ) |
Tỉ lệ %
diện tích rừng |
Bắc
bộ Trungbộ
(gồm cả Lâm đồng và Thuận hải)
Nam
bộ Tính
chung cả nước |
11.570
14.574
6.470
32.804 |
6.955
6.580
817
14.325 |
60,8 44,0 13,0 48,3 |
Rừng
Việt Nam có nguồn tài nguyên sinh vật đa dạng.
Có thể nói nước ta là trung tâm thu nhập các luồng thực
vật và động vật từ phía bắc xuống, phía tây qua, phía nam lên
và từ đây phân bố đến các nơi khác trong vùng.
Ðồng thời, nước ta có độ cao ngang từ mực nước biển
đến trên 3.000 m nên VN có nhiều loại rừng với nhiều loại
thực vật và động vật quý hiếm và độc đáo mà các nước ôn
đới khó có thể tìm thấy được:
-
Về thực vật, theo số liệu thống kê gần đây thì có khoảng
12.000 loài thực vật, nhưng chỉ có khoảng 10.500 loài đã được
mô tả (Hộ, 1991- 1993), trong đó có khoảng 10% là loài đặc hữu;
800 loài rêu; 600 loài nấm... Khoảng 2.300 loài cây có mạch đã
được dùng làm lương thực, thực phẩm, làm thức ăn cho gia súc.
Về cây lấy gỗ gồm có 41 loài cho gỗ quí (nhóm 1), 20 loài
cho gỗ bền chắc (nhóm 2), 24 loài cho gỗ đồ mộc và xây dựng
(nhóm 3)..., loại rừng cho gỗ nầy chiếm khoảng 6 triệu ha.
Ngoài ra rừng VN còn có loại rừng tre, trúc chiếm khoảng
1,5 triệu ha gồm khoảng 25 loài đã được gây trồng có giá trị
kinh tế cao.
Ngoài
những cây làm lương thực, thực phẩm và những cây lấy gỗ ra,
rừng Việt Nam còn có những cây được sử dụng làm dược liệu
gồm khoảng 1500 loài trong đó có khoảng 75% là cây hoang dại.
Những cây có chứa hóa chất quý hiếm như cây Tô hạp (Altingia
sp.) có nhựa thơm có ở vùng núi Tây Bắc và Trung bộ; cây Gió
bầu (Aquilaria agalocha) sinh ra trầm hương, phân bố từ Nghệ tỉnh
đến Thuận Hải; cây Dầu rái (Dipterocarpus) cho gỗ và cho dầu
nhựa...
-
Về động vật cũng rất đa dạng, ngoài các loài động vật đặc
hữu Việt Nam còn có những loài mang tính chất tổng hợp của khu
hệ động vật miền nam Trung Hoa, Ấn Ðộ, Mã Lai, Miến Ðiện.
Hiện tại đã thống kê được khoảng 774 loài chim, 273 loài thú,
180 loài bò sát, 80 loài lưỡng cư, 475 loài cá nước ngọt và
1.650 loài cá ở rừng ngập mặn và cá biển; chúng phân bố trên
những sinh cảnh khác nhau, trong đó có nhiều loài có giá trị kinh
tế cao, có ý nghĩa khoa học. Nhiều loài quý hiếm có tên trong Sách
đỏ của thế giới.
Khi
chưa có sự xuất hiện của con người, rừng che phủ hầu hết đất
đai của các lục địa. Trong lịch sử phát triển của loài người
vào thời kỳ đồ đã cũ, con người sống hoàn toàn phụ thuộc vào
rừng bằng các hoạt động săn bắt và hái lượm, các hoạt động
nầy không gây thiệt hại gì cho rừng.
Ðến khi con người bắt đầu biết chăn nuôi và trồng
trọt thì con người có những hoạt động tác hại đến rừng,
mặc dù các tác động nầy có phần nào hạn chế sự phát triển
của rừng nhưng cũng chưa đáng kể lắm.
Kể
từ thế
kỹ thứ 3 trước Công
nguyên trở về sau thì rừng mới thực sự bị con người tấn công
khai phá. Sự tấn công khai phá rừng được thấy rõ nét nhất ở
châu Âu, khi ấy dân số đông dần, nông nghiệp càng ngày càng
mở rộng đồng thời nghề luyện kim xuất hiện, con người đốt
rừng để trồng tỉa, lấy gỗ để làm nhiên liệu, làm nhà, đẻo
gỗ làm thuyền, làm bè... cứ như thế rừng bị thu hẹp dần. Cùng
với sự phát triển nền công nghiệp, dân cư càng ngày càng tập
trung ở các đô thị làm cho rừng càng ngày càng bị thu hẹp hơn.
a.
Sự tàn phá rừng
*
Ở Châu Âu
Rừng
ở Châu Âu bị tàn phá sớm nhất mà chủ yếu ở Tây Âu. Sự tàn
phá đáng kể xảy ra từ thời
kỳ Trung Cổ (từ thế kỷ thứ V
đến thế kỹ XII) và kéo dài đến thời kỳ Phục hưng (từ thế
kỷ thứ XV đến thế kỷ thứ XVIII). Do sự phát triển của các đô thị, các thành
phố lớn, nhà thờ, công xưởng kỹ nghệ, xưởng đóng tàu ngày
càng nhiều; kỹ nghệ luyện kim và thủy tinh xuất hiện; nền nông
nghiệp càng phát triển... để cung cấp đủ nguyên liệu cho nhu
cầu phát triển nói trên phải tiêu thụ rất nhiều gỗ dẫn đến
sự khai phá rừng làm thu hẹp diện tích rừng một cách đáng
kể.
Sau
đó vào nửa cuối thế kỷ thứ 19, giao thông đường sắt phát
triển, công nghiệp hóa học và công nghiệp giấy ra đời đã gia
tăng nhu cầu sử dụng gỗ. Chỉ
riêng về công nghiệp giấy đã cho thấy vào năm 1850 sản xuất
giấy trên toàn thế giới chỉ có một triệu tấn giấy/năm và đến
năm 1990 đã lên đến 80 triệu tấn/ năm, hiện nay nhu cầu còn cao
hơn rất nhiều.
*
Ở Trung Cận Ðông, Bắc Phi và Bắc Mỹ
Ở
Trung Cận Ðông, Bắc Phi thì rừng bị tàn phá nặng nề chủ yếu
là do việc chăn nuôi thả dê, cừu gây nên và cũng do tăng dân
số. Chẳng hạn như ở Syria
một nước nhỏ chỉ có 182.000 km2 có khoảng 2,4 triệu con cừu và
1,2 triệu con dê; Thổ Nhỉ Kỳ với diện tích 775.000km2
đã có tới 26 triệu con cừu và 20 triệu con dê.
Vì vậy hiện nay Trung Ðông và Bắc Phi là những vùng cạn
kiệt rừng nhiều nhất trên thế giới.
Ở
Bắc Mỹ, nguyên nhân tàn phá rừng ở Bắc Mỹ là do lợi nhuận
trong việc xuất khẩu gổ. Trước đây tài nguyên rừng ở khu
vực nầy tưởng chừng như vô tận,
từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 18
bắt đầu có sự khai thác gỗ đưa sang bán cho châu Âu trong
giai đoạn nầy chưa có ảnh hưởng gì lớn; nhưng nhịp độ khai thác tăng nhanh kể từ nửa
sau thế kỷ 19 đã đưa rừng vào tình trạng báo động.
*
Sự tàn phá rừng nhiệt đới
Rừng
nhiệt đới trước đây rất lớn, chiếm tới 16 triệu km2 (bằng
10 % diện tích quả đất) đến nay
chỉ còn 9 triệu km2. Rừng mưa
nhiệt đới có sinh khối rất lớn 500 - 800 tấn khô/ha và rất đa
dạng về thành phần loài; nhiều tài liệu cho biết 50% số loài
động và thực vật trên trái đất cư trú trong các vùng của
rừng nhiệt đới, bình quân cứ 10 km2 rừng đã có tới 1.500 loài
thực vật có hoa, 125 loài thú, 400 loài chim, 100 loài bò sát, 60 loài
ếch nhái, 150 loài bướm, 42.000 loài côn trùng (Liêm, 1990).
Do
nhu cầu sử dụng về nguồn gỗ, nguồn nhiên liệu ngày càng tăng
đó là nguyên nhân của sự khai thác rừng bừa bải; đồng thời
do áp lực gia tăng dân số ngày càng cao trong các thập kỷ vừa
qua dẫn đến sự khai phá rừng để lấy đất canh tác, nơi cư trú
và mở rộng sân bay, phát triển các đô thị, xây dựng các đập
thủy điện... và chưa kể đến sự tàn phá do chiến tranh và
nạn cháy rừng, đây là
những nguyên nhân khiến cho diện tích rừng càng bị thu hẹp
nhanh.
*
Sự tàn phá rừng ở Việt Nam
Năm
1945 diện tích rừng ở Việt Nam là 14 triệu ha đến hiện nay
chỉ còn lại khoảng 6, 5
triệu ha, như vậy trung bình mỗi năm rừng Việt Nam bị thu hẹp
từ 160 - 200 ngàn ha. Nguyên nhân
dẫn đến sự giảm sút nghiêm trọng về diện tích là do khai
hoang trong chiến tranh, do tập quán sống du canh của số dân tộc
ở vùng cao, do cháy rừng, do sự khai phá rừng bừa bãi lấy gỗ
lấy đất canh tác...
Nguồn
tài nguyên động vật đa dạng của rừng Việt Nam cũng bị giảm
sút nghiêm trọng là do sự săn bắt thú bừa bãi để lấy da, lông,
thịt, sừng và các sản phẩm khác để làm thuốc, còn do việc buôn
lậu thú quý hiếm ra nước ngoài. Trong 4 thập kỷ qua theo ước tính
sơ bộ đã có 200 loài chim đã bị tuyệt chủng và 120 loài thú đã
bị diệt vong.
Trong
những năm gần đây, do lợi ích trước mắt của nguồn lợi
thủy hải sản, dẫn đến sự
tàn phá các rừng ngập mặn để lấy chất đốt và làm vuông
nuôi các loài thủy hải sản có giá trị kinh tế ; điều nầy
xảy ra nghiêm trọng ở vùng đồng bằng sông Cửu long, sông Hồng
và một số các tỉnh ven biển và hậu quả của nó là phá vở
sự cân bằng hệ sinh thái rừng ngập mặn, làm mất đi nơi sinh
sản của một số loài tôm cá nước ngọt và biển, đồng thời
gây nên hiện tượng xói mòn bờ biển do sóng và do gió.
b.
Sử dụng, bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng
*
Tầm quan trọng của việc bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng
Sự
tàn phá rừng ở các nơi trên thế giới đã gây hậu quả
nghiêm trọng cho con người. Mặc dù con người đã nhận thức được
điều nầy, nhưng mỗi quốc gia có những biện pháp xử lý khác
nhau tùy vào sự ý thức của người dân và tùy vào khả năng và
điều kiện cụ thể của từng quốc gia, cho nên đến nay ở một
số quốc gia tình trạng khai phá rừng vẫn còn xảy ra nghiêm
trọng.
Ðáng
lo ngại nhất hiện nay là các
khu rừng nhiệt đới, do sự gia tăng dân số, do việc xuất khẩu
gỗ là một nguồn lợi tức đáng kể cho các quốc gia nằm trong
khu vực nầy, nên nạn khai thác các khu rừng nhiệt đới diễn ra
với tốc độ đáng lo ngại; chẳng hạn như rừng Amazone là khu
rừng nguyên sinh lớn nhất hành tinh hiện nay đang bị khai phá nghiêm
trọng. Theo các nhà chuyên môn
cho rằng với tốc độ khai phá hiện nay thì chỉ trong vòng vài mươi
năm nữa thì khu rừng nầy sẽ bị hủy diệt hoàn toàn và lúc đó
con người sẽ nhận những hậu quả khó lường xảy ra do sự
biến đổi về khí hậu trên trái đất.
Những
nước ở châu Âu sớm phá hoại rừng và đã sớm nhận ra được
hậu quả của nguy cơ mất rừng nên việc bảo vệ và khôi phục
nguồn tài nguyên rừng ở các nước nầy đã cho nhiều kết quả
đáng khích lệ. Ðó là một
bài học rất có giá trị, vì vậy việc sử dụng, bảo vệ và phát
triển trồng rừng phải được coi là một chánh sách lớn của
mỗi quốc gia trên thế giới hiện nay.
*
Chiến lược bảo vệ và phát triển rừng trên thế giới
Trong
tình hình hiện nay cho thấy việc bảo vệ tài nguyên rừng và
việc khôi phục nguồn tài nguyên nầy để đảm bảo cho sự cân
bằng sinh thái đồng thời bảo tồn tính đa dạng sinh học, ngăn
chặn sự diệt vong của các loài nhất là các loài quý hiếm là
một việc làm hết sức cấp bách.
Chiến
lược khôi phục và bảo vệ rừng trên thế giới tập trung vào các
vấn đề chính yếu sau đây:
+ Ngăn chặn càng sớm càng tốt nạn phá rừng nhất là
rừng nhiệt đới:
Các
nước đang phát triển sử dụng đến 80 % lượng gỗ củi trên
thế giơí. Ở đây bình quân mỗi đầu người dùng 0,2 - 0,3 m3
gỗ/năm để đun nấu, chiếm gấp 10 lần số lượng gỗ dùng
trong xây dựng, vật dụng trang trí và làm giấy.
Việc
xuất khẩu gỗ sang các nước phát triển là một nguyên nhân phá
rừng nhất là rừng nhiệt đới. Nhật là nước hàng đầu trong
việc nhập khẩu gỗ với 15 triệu tấn / năm, trong năm 1987 Nhật
đã nhập 1,825 triệu tấn gổ từ
Malaysia, 372 ngàn tấn từ Indonesia, 300 ngàn tấn từ Philippin
và hàng triệu tấn gỗ xẽ nhập từ Hoa kỳ, số gỗ nầy dùng vào
kỹ nghệ giấy và dùng vào xây dựng. Ðặc biệt Nhật là nước
tiêu thụ đủa ăn nhiều nhất, năm 1988 Nhật đã tiêu thụ 2 tỉ
đôi đũa Waribashi (loại đũa làm bằng một loại gỗ trắng và
chỉ dùng 1 lần rồi bỏ), một nữa số đũa nầy nhập từ Trung
quốc, Indonesia, Triều tiên và Philippin.
Sự
bùng nổ kinh tế ở Nhật là nguyên nhân làm giảm đáng kể diện
tích rừng nhiệt đới; tính từ 1968 đến 1988 để thỏa mản về
nhu cầu bột giấy cao cấp cho Nhật mà Thái Lan đã mất đi 100.000
ha rừng Sú Vẹt, Philippin mất 200.000 ha còn Indonesia mất đến 2
triệu ha. Hiện nay, sau khi đã khoét rỗng các khu rừng của các nước
nầy, người Nhật đang dòm ngó tới NewZealand và thậm chí tới
cả khu rừng già nguyên thủy Amazon (Liêm, 1990).
Hiện
nay, trước những hậu qủa do sự tàn phá rừng đem lại nhiều nước
đã và đang có những chương trình bảo vệ và phục hồi nguồn tài
nguyên nầy. Các nước nhiệt đới như Thái Lan đã có sắc lệnh
cấm khai thác gỗ, Việt Nam thì cấm xuất khẩu gỗ tròn, gỗ xẻ
mà chỉ xuất khẩu gỗ ở dạng thành phẩm; song song đó còn phát
động rộng rãi các chương trình đẩy mạnh việc trồng rừng và
đồng thời tìm ra các nguồn nhiên liệu khác thay thế dần gỗ
củi.
+
Ðẩy mạnh công tác giáo dục cho mọi người dân về vai trò của
rừng cũng như hậu quả của việc khai thác rừng bừa bải:
Cần giáo dục cho mọi người hiểu biết vai trò của rừng
đối với đời sống của con người, đánh đổ quan niệm thói
quen cho rằng rừng là của trời cho mà sử dụng phung phí. Việc
đưa nội dung bảo vệ các nguồn tài nguyên nói chung và nguồn tài
nguyên rừng nói riêng vào chương trình giáo dục là một điều
hết sức cần thiết. Tuyên truyền giáo dục, hổ trợ và hướng
dẫn, tạo điều kiện để mọi người nhất là đồng bào các dân
tộc làm quen với lối sống định canh, định cư.
+
Sử dụng phương pháp Nông -
lâm kết hợp và Lâm - nông kết hợp:
-
Trong phương pháp Nông - lâm kết hợp thì sản xuất nông
nghiệp là chủ yếu, việc trồng xen các cây thân gỗ lâu năm
nhằm mục đích phòng chống gió bảo,
chống xói mòn, giử ẩm và giử nước.... tạo điều kiện
làm tăng sản lượng nông nghiệp.
-
Trong phương pháp Lâm - Nông kết hợp thì sản xuất cây lâm
nghiệp là chính, việc trồng xen cây nông nghiệp với cây lâm
nghiệp nhằm hạn chế cỏ dại chống xói mòn và đồng thời làm
tăng số lượng sản phẩm nông nghiệp. Ngoài ra người ta còn có
thể kết hợp giữa Nông nghiệp, Lâm nghiệp và chăn nuôi gia súc,
thủy sản.
+Xây
dựng và bảo vệ các khu rừng quốc gia:
Từ
xa xưa con người cũng có ý quan tâm đến việc bảo vệ thiên
nhiên đó là các khu rừng cấm của các vua chúa thời xưa.
Quan niệm về khu bảo vệ thiên nhiên thống nhất ở điểm
là mang lại lợi ích cho dân cư địa phương, bản xứ về kinh
tế góp phần thúc đẩy sự phát triển xã hội về vật chất,
tinh thần và đạo đức. Sự xây dựng và bảo vệ các khu rừng
quốc gia còn có ý nghĩa quan trọng khác là bảo tồn được tính
đa dạng sinh học, bảo tồn nguồn gen quí và bảo vệ đất
chống xói mòn..
Hiện
nay ở nước ta có 10 vườn quốc gia (khoảng 254.807ha), 52 khu dự
trử (khoảng 1.401.658 ha), 18 khu bảo tồn loài/sinh cảnh, 22 khu
bảo vệ cảnh quan và dự kiến có 16 khu bảo tồn biển Việt Nam.
Các vườn quốc gia đã và đang được bảo vệ có hiệu
quả như vườn Quốc gia Bavì (7.337 ha), Ba bể (23.340 ha), Bạch Mã
(22.030 ha), Bến en (16.634 ha), Cúc Phương (22.200 ha), Cát bà (15.200
ha), Côn đảo (15.043 ha), Nam Cát tiên (37.900 ha), Tam đảo (36.883
ha), Yokdon (58.200 ha) (Bộ Khoa học- Công nghệ và môi trường,
1998).
II.
TÀI NGUYÊN ÐỘNG VẬT và THỰC VẬT HOANG DÃ
1.
Vai trò của thực vật và động vật hoang dã đối với con người |
Ðộng
vật và thực vật hoang dã là nguồn tài nguyên có khả năng tái
sinh và có vai trò rất quan trọng cho sự tồn tại và phát triển
của nhân loại:
a.
Về kinh tế
Sinh
vật hoang dã là nguồn dự trử có tiềm năng to lớn và có khả năng
đáp ứng những nhu cầu của con người về lương thực-thực
phẩm và những nguyên vật liệu khác như da, lông, gia vị, hương
liệu, sáp, dầu ăn, tinh dầu, các hóa chất, giấy, sợi, cao su,
phẩm nhuộm ....
Người
ta ước tính rằng khoảng 90% lượng lương thực và thực phẩm mà
con người sử dụng đươc tạo ra từ cây trồng và vật nuôi mà
các cây trồng và vật nuôi nầy đều có nguồn gốc từ các loài
hoang dã và trải qua một quá trình thuần dưỡng và cải tiến đã
hình thành nên. Mặc dù hiện
nay nguồn lương thực và thực phẩm con người sử dụng từ các
cây trồng và vật nuôi, tuy nhiên cũng có một số nơi trên thế
giới người ta vẫn còn sử dụng lượng thực phẩm phần lớn
từ những loài động vật hoang dã; chẳng hạn như tại một số
vùng ở Ghana, Congo và nhiều nước ở Tây và Trung Phi có tới 75%
prôtein động vật được khai thác từ động vật hoang dã.
Ngoài
việc sử dụng làm thực phẩm, các động vật hoang dã còn được
khai thác những bộ phận khác của cơ thể như da, lông, sừng...để
làm trang phục, đồ trang trí và nhiều mục đích khác; các sản
phẩm nầy cũng có một giá trị kinh tế rất lớn. Ở Canada việc
mua bán lông thú đã nuôi sống khoảng
40.000 người săn bắt; trong mùa săn 1975 - 1976 họ đã thu
được 25 triệu USD lông thú chủ yếu là của Hải ly, Chuột hương,
Linh miêu, Hải cẩu, Chồn Vison và Cáo; cũng trong thời gian nầy
việc chăn nuôi cũng thu được 17 triệu USD lông thú trong đó có
90% là của chồn Vison. Trong năm 1975, Hoa kỳ đã chi tới 1 tỉ USD
để nhập các sản phẩm từ da và lông của các loài động vật
hoang dã.
Mậu
dịch quốc tế về cây và
con hoang dã cũng đem lại một doanh thu lớn, những nước phát
triển chăn nuôi động vật hoang dã như Nam Phi, Dimbabwe, Namibia
hằng năm thu được lợi nhuận từ 1,3 -2,4 triệu USD; Australia
hằng năm xuất khẩu 1,8 triệu con Kangaroo thu được 8,5 triệu USD.
Mặc dù tài nguyên về động vật hoang dã đem lại lợi ích rất
lớn cho nền kinh tế ở từng quốc gia, tuy nhiên nó cũng là một
trong những quan tâm lớn của nhân loại hiện nay.
b.
Về y học
Dù
rằng chỉ có một phần rất nhỏ động vật và thực vật là đối
tượng nghiên cứu về lợi ích trong y dược, nhưng ngành y học
hiện đại phụ thuộc rất nhiều vào đó.
Một bảng phân tích cho thấy là khoảng 40% các đơn thuốc
được các bác sĩ cung cấp hằng năm tại Hoa Kỳ cho thấy có
những vị thuốc đơn lẻ hoặc kết hợp đều có chứa các chất
tự nhiên được lấy từ thực
vật bậc cao (25%), từ các vi khuẩn và nấm ( 13%) hoặc từ các động
vật (3%). Chỉ tính riêng tại Hoa Kỳ, các vị thuốc được ly trích
từ thực vật bậc cao có giá trị khoảng 3 tỉ USD hằng năm và
con số nầy còn tiếp tục được gia tăng nữa.
Các
ứng dụng quan trọng trong y học hiện nay có thể kể là:
* Các chất ly trích được sử dụng trực tiếp để chữa
bệnh như Aspirin được sử
dụng rộng rải trên thế giới được lấy từ
lá của cây Liễu ở vùng nhiệt đới, Penicillin được lấy
từ loài nấm Penicillium và Streptomycin được lấy từ loài vi
khuẩn Streptococcus....
*
Các chất ly trích được dùng làm vật liệu ban đầu để tổng
hợp nên thuốc như
các hormone Corticosurrenale được lấy từ vỏ thượng thận của động
vật, các hợp chất Corticoid thông thường được tổng hợp từ các
chất Sapogenin steroid có nguồn gốc từ thực vật...
* Các chất ly trích được dùng làm mô hình để
tổng hợp nên thuốc như chất cocain
được lấy từ cây Côca có nguồn gốc ở Nam Mỹ, dựa theo
đó người ta đã sản xuất thuốc gây mê cục bộ hiện đại.
Nếu
không có những gốc có hoạt tính tự nhiên trong cơ thể cuả các
sinh vật hoang dã, thì con người khó có khả năng phát hiện được
những gốc có hoạt tính đó mà sử dụng hoặc dựa vào đó làm
mô hình để tổng hợp.
Hiện
nay, cũng phát hiện được nhiều loài động vật hoang dã có khả
năng sử dụng chúng để làm vật thí nghiệm và sản suất nên
những loại vaccin dùng trong việc
phòng bệnh và cũng ước tính có khoảng 1400 loài thực vật bậc
cao và 10% các loài sinh vật biển có chứa các
chất hóa học có khả năng chống bệnh ung thư.
c.
Về tính đa dạng di truyền
Việc
bảo tồn tính đa dạng di truyền ở các loài sinh vật hoang dã là
một việc làm cấp thiết trong giai đoạn hiện nay, vì chúng là
nguồn nguyên liệu di truyền quý giá dùng để cải tiến những
thứ cây trồng và những nòi vật nuôi hiện có nhằm để nâng
cao sản lượng thu hoạch trong sản xuất nông -lâm -ngư nghiệp.
Nguyên
liệu di truyền nằm trong các loài gây nuôi (bao gồm tất cả
những thứ cây trồng, các nòi vật nuôi, các thủy hải sản) đều
có quan hệ mật thiết với
nguồn nguyên liệu di truyền của các loài sinh vật hoang dã,
nguồn nguyên liệu nầy đã đóng vai trò chủ yếu trong việc cải
tạo giống cây trồng và vật nuôi như nâng cao năng suất, chất lượng
dinh dưỡng, mùi vị, tuổi thọ, sức đề kháng, sức chịu đựng
và khả năng thích nghi với các điều kiện khí hậu, đất đai khác
nhau.
Nguồn
nguyên liệu di truyền trong các loài hoang dã rất hiếm và gần như
không bao giờ là vĩnh cữu. Những giống cổ truyền quí thường
chỉ phân bố ở từng điạ phương, chính những đặc điểm hữu
ích của nó như sản lượng cao hoặc sức đề kháng dịch bệnh
của nó làm nền tảng tạo nên những giống mới tiến bộ hơn.
Việc thay thế những giống cổ truyền bằng những giống mới
trong sản suất là một việc làm cần thiết và tích cực bởi vì
chúng ta cần nhiều lương thực - thực phẩm hơn nữa; nhưng điều
đó sẽ trở thành nguy hại nếu như các giống cổ truyền có liên
quan lại không được bảo vệ vì những loài dịch hại có khả năng
tiến hoá nên có khả năng xâm nhiễm trở lại và chỉ có nguồn
các giống cổ truyền mới có nguồn nguyên liệu di truyền có
khả năng chống lại những loài gây hại và dịch bệnh. Cho nên
việc bảo vệ tính đa dạng di truyền ở các loài hoang dã là
hết sức cần thiết trong giai đoạn hiện nay và cho cả tương
lai.
d.
Về sinh thái
Ðộng
vật và thực vật hoang dã là thành phần chủ yếu của hệ sinh
thái và có vai trò rất quan trọng trong sự điều hòa các chu trình
vật chất và năng lượng trong hệ sinh thái của quả đất.
Trong hệ sinh thái, các thực vật hoang dã là nguồn cung cấp
chất dinh dưỡng cho các sinh vật trên đất liền và đại dương
là mắt xích đầu tiên của chuổi - lưới thức ăn, cung cấp và
duy trì sự cân bằng oxygen và các chất khí khác trong khí quyển,
là màng lọc khói bụi và những độc
chất làm cho không khí trong lành hơn, điều hòa khí hậu, dự
trử và điều phối nước ngọt, duy trì và gia tăng độ phì nhiêu
của đất, tái tạo nguồn chất dinh dưỡng trong sản phẩm nông
nghiệp, kiểm soát dịch hại làm ảnh hưởng đến năng suất
vật nuôi và cây trồng, là kho dự trử nguồn nguyên liệu di
truyền khổng lồ có khả năng đáp ứng khi các điều kiện môi
trường biến động, là nguồn dự trử năng lượng mặt trời dưới
dạng hóa năng trong lương thực thực phẩm, trong gổ và năng lượng
trong các nhiên liệu hóa thạch.
Bởi
vì hiện nay chúng ta biết
rất ít về vai trò của các sinh vật hoang dã cũng như mối liên
hệ phức tạp giữa chúng với các thành phần khác trong hệ sinh
thái nên những việc làm của con người hiện nay sẽ gây những
thiệt hại không lường hết được trong tương lai.
e.
Về giải trí và du lịch
Cuối
cùng, động vật và thực vật hoang dã còn có ý nghiã quan trọng
đối với việc giải trí và du lịch của con người sau thời gian
làm việc mệt mỏi. Nhìn những chiếc lá vàng rơi, những con chim bay lượn
trên bầu trời, những con cá heo lướt trên mặt nước, phảng
phất đâu đây hương thơm của một loài hoa dại... con người
sẽ có được những cảm giác tươi vui và thích thú, những cảm
giác đó không thể mua được bằng tiền.
Ở
một số quốc gia thì tài nguyên sinh vật hoang dã đã đem lại
một khoản lợi tức đáng kể từ du lịch;
chẳng hạn như ở Kenya, du lịch chủ yếu dựa trên các loài
động vật hoang dã là 1 trong 3 nguồn thu ngoại tệ chính của
quốc gia nầy.
Ở
một số quốc gia phát triển, thì động vật hoang dã được sử
dụng trong săn bắn thể thao là môn rất được ưa chuộng và được
kiểm soát bởi luật pháp một cách chặt chẻ như ở Canada chỉ có
11% dân số mới có giấy phép đi săn và 13% có giấy phép đi câu;
còn ở Thụy Ðiển con số nầy là 12% và 18%. Tuy nhiên cũng có
một số đông người họ chỉ thích ngắm
các sinh vật hoang dã mà thôi, theo thống kê thì ở Hoa Kỳ
có 7 triệu người chuyên quan sát chim, 4,5 triệu người chuyên
chụp ảnh các động vật hoang dã và 27 triệu người thích ngắm
cảnh vật hoang dã của tự nhiên (Miller, 1988).
Cũng
như cây trồng và vật nuôi, nhiều loài động vật và thực vật
hoang dại đã bị biến mất trên trái đất và khoảng 25.000 loài
động vật có xương sống đang bị đe doạ diệt vong, các con số
nầy chưa tính đến sự mất đi không thể tránh khỏi của những
loài động vật nhỏ nhất là các động vật không xương sống như
nhuyễn thể, côn trùng, san hô....Nếu chỉ tính riêng các loài
hữu nhủ và chim, theo E.O.Wilson và Norman Meyers thì tỉ lệ tuyệt
chủng của hai nhóm nầy tăng gấp 1.000 lần kể từ 8.000 năm trước
Công nguyên cho đến năm 1975 ( Miller, 1988).
E.
O. Wilson cùng với các nhà sinh vật học và các nhà bảo vệ môi
trường còn cho biết rằng nếu tính chung cho các loài bị biến
mất trong năm 1975 là 100 loài(tỉ lệ 1loài/3 ngày); năm 1985 là
1.000 loài ( tỉ lệ 3 loài/1
ngày), các ông còn cảnh báo rằng nếu như sự tàn phá rừng với tốc độ như hiện nay
nhất là các khu rừng nhiệt đới, sự phá hủy
các vùng đất ngập nước và các rạng san hô vẫn còn
tiếp tục thì có thể có từ 500.000 loài đến 1 triệu loài sẽ
bị tiêu diệt từ 1975 đến năm 2000, theo sự ước tính nầy
thì trung bình cứ 30 phút trôi qua thì có 1 loài vắng bóng vĩnh
viễn trên trái đất. Nếu giả thuyết nầy là sự thật thì đó
là một tổn thất rất lớn cho nhân loại (Miller, 1988).
Khi
phân tích nguyên nhân đe dọa sự tuyệt chủng của các loài hoang
dã các nhà sinh vật học và các nhà bảo vệ môi trường đều
thống nhất do những nguyên nhân chính sau đây:
·
Hoạt
động của con người làm thay đổi nơi cư trú của các loài hoang
dã: con người
luôn luôn làm thay đổi nơi cư trú của các loài hoang dã bằng các
hoạt động như việc xây dựng các thành phố, mở rộng đường
xá, xây dựng sân bay, bến cảng, xây dựng các đập nước và các
hồ chứa nước, khai phá rừng, việc mở rộng các nông trại,
khai thác các khu du lịch, thể thao.... Nơi cư trú bị phá vở làm
ảnh hưởng trực tiếp đến sự sinh trưởng, sinh sản, di cư và
các hoạt động sống của các sinh vật hoang dã. Chẳng hạn như
sự xây dựng các đập nước để phục vụ cho các môn thể thao
như đua thuyền, trượt ván... đã làm ngăn trở sự di cư sinh
sản của cá Hồi trên các sông ngòi ở Columbia giảm đáng kể, trước đây hàng năm thu
hoạch được khoảng từ 10 - 15 triệu con mà ngày nay chỉ thu
hoạch được khoảng 2,5 triệu con (Chiras, 1991).
·
Hoạt
động săn bắt thương mại, săn bắt làm thực phẩm và săn bắt
thể thao: các
hoạt động nầy cũng là nguyên nhân dẩn đến nguy cơ tuyệt
chủng của các loài hoang dã. Săn
bắt cá Voi là một thí dụ điển hình đã đe dọa sự tồn tại
của loài nầy:
hoang
dã. Săn bắt cá Voi là một thí dụ điển hình đã đe
dọa sự tồn tại của loài nầy:
Bảng
4. Số lượng cá Voi trước và
sau 1 thời gian săn bắt (Miller, 1988)
Loại
cá Voi |
Số lượng trước khi săn bắt |
Số
lượng còn lại hiện nay |
Blue Bowhead Fin Gray Humpback Minke Right Sei
( Includes Bryde’s) Sperm |
166.000
54.680
450.000 15.000 -
20.000
119.000
250.000
50.000
108.000 1.377.000 |
7.500 - 15.000 3.600 -
4.100
105.000 - 122.000 13.450 -
19.200 8.900 -
10.500
130.000 - 150.000
3.000 36.800 - 54.700 982.300 |
Ở
Châu Phi và đặc biệt là ở Kenya, săn voi để lấy ngà đã gây nên
sự sút giảm đáng kể số lượng voi hoang dã, vào thời điểm
1973 có khoảng 130.000 con voi trong các khu rừng thì hiện nay chỉ còn
lại khoảng 20.000 con (Chiras, 1991). Ở Ấn Ðộ vào đầu thế kỷ
20, trong các khu rừng có khoảng 40.000 con hổ nhưng đến hiện
nay (1999) chỉ còn khoảng 2.000 con.
Săn
bắt thể thao cũng là nguyên nhân dẩn đến nguy cơ tuyệt chủng
của càc loài hoang dã nếu như không được kiểm soát một cách
chặt chẻ. Vì vậy ở một số quốc gia như Canada, Thụy điển,
Hoa kỳ... đều có những điều luật qui định cho săn bắn thể
thao và chỉ có những người có giấy phép mới được tham gia vào
hoạt động nầy và đồng thời hàng năm cũng bổ sung thêm vào
những loài đã bị săn bắt.
·
Sự
du nhập các loài ngoại lai: Sự du nhập các loài mới vào là một
bài học đối với
một số quốc gia, các loài mới du nhập vào có ảnh hưởng tiêu
cực đối với các loài bản địa như sự cạnh tranh về thức ăn,
chất dinh dưỡng, nơi cư trú, nơi sinh sản, truyền nhiểm bệnh
tật, ký sinh...có thể làm cho một số loài bản địa đứng trước
nguy cơ bị tiêu diệt. Thí
dụ như cá Anh vũ và cá Giếc nhập nội vào Hoa kỳ đã đe dọa
nhiều loài cá ở đây; thỏ nhập nội vào Châu Uïc sinh sản và
phát triển rất nhanh dã tàn phá mùa màng gây thiệt hại nghiêm
trọng.
·
Kiểm
soát dịch bệnh và thiên địch: Trong quá trình canh tác nông
nghiệp con người
thường sử dụng các loại thuốc sát trùng để diệt trừ các loài
gây hại; trước mắt là con người có khả năng bảo vệ được
mùa màng của họ, nhưng việc sử dụng thuốc sát trùng còn có tác
động trực tiếp đến các loài hoang dã dẫn tới nguy cơ tuyệt
chủng của chúng. Sự sử
dụng thuốc sát trùng trong những ruộng lúa đã tiêu diệt hầu như
hoàn toàn các loài động vật hoang dã thủy sinh và còn ảnh hưởng
gián tiếp đến những loài khác. Ở
Hoa kỳ việc sử dụng DDT và
nhiều loại thuốc sát trùng khác trong thập niên 1960 đã gây tổn
thất rất lớn cho các loài hoang dã, những com chim Ưng và chim Bồ
nông càng ngày càng giảm số lượng và gầy yếu hơn ; khi phân tích
hàm lượng DDT trong lớp mở
của chúng thì thấy hàm lượng DDT tích tụ rất cao và cả trong
trứng của chúng có thể tới 1.400ppm (Chiras, 1991).
·
Hoạt
động sưu tập, huấn luyện xiếc và xây dựng các thảo cầm viên
cũng góp phần
làm giảm số lượng các loài hoang dã nhất là đối với những
loài hiếm. Hằng triệu loài thực vật và động vật hoang dã được
thu gom vào trong các Thảo cầm viên, các sưu tập cá nhân, các
cửa hiệu buôn bán các sản phẩm từ động vật hoang dã, sử
dụng động vật hoang dã trong các đoàn xiếc và các trung tâm nghiên
cứu...Năm 1988, Hoa kỳ đã nhập hơn 125 triệu con cá, 1,2 triệu
con bò sát và 1,5 triệu tấm da của bò sát; mỗi năm hằng triệu
con chim vùng nhiệt đới được xuất sang Hoa kỳ, Canada và Anh
quốc.
·
Ô
nhiễm và sự phá hủy các khu vực sinh trưởng là hai mối đe
dọa nghiêm trọng
nhất hiện nay. Sự ô nhiễm
nặng nề nhất là ô nhiễm ở vùng cửa sông và vùng ven bờ
biển do các chất thải của
các khu công nghiệp, dư lượng của phân bón và thuốc sát trùng,
các tai nạn đấm tàu dầu... đã tiêu diệt nhiều loài động
vật thủy sinh cùng với sự tích tụ những độc chất theo chuổi thức ăn, đều là
những mối đe dọa cho các loài
hoang dã. Bên cạnh đó sự phá
hủy các khu vực sinh trưởng làm thay đổi các điều kiện vật lý
và hóa học ảnh hưởng đến sự sinh sản và phát triển của các
loài, sự xây dựng các đập
nước ngăn cản sự di cư của các loài thủy sinh nhất là sự di
cư vào mùa sinh sản..
Hiện
nay trên thế giới có rất nhiều loài động vật và thực vật
hoang dã đang đứng trước nguy cơ tuyệt chủng. Trước tình hình
nầy nhiều tổ chức quốc tế được thành lập nhằm mục đích
tìm những biện pháp thích hợp để bảo vệ những loài hoang dã trên toàn thế giới: Tổ chức
quốc tế bảo vệ thiên nhiên và tài nguyên thiên nhiên
(International Union for the Conversation of Nature and Natural Resources = IUCN
), Hiệp hội quốc tế bảo vệ chim (International Council for Bird
Preservation= ICBP ) và Qũy bảo
vệ sinh vật hoang dã thế giới (Word Wildlife Fund= WWF) đã thống
nhất quan điểm về nhửng mối đe dọa và nguy cơ tuyệt
chủng của các loài hoang dã hiện nay và đưa ra những biện pháp
bảo vệ những loài nầy. IUCN đã thu thập được một danh sách các
loài hoang dã trên thế giới cần được bảo vệ và phổ biến
rộng rãi gọi là Sách Ðỏ (The Red Data Book).
Ban
đầu những hội nghị về bảo vệ sinh vật hoang dã chỉ có sự
tham gia của một số ít quốc gia và càng về sau càng có nhiều
quốc gia tham gia hơn. Một trong những hiệp định đã được ký
kết vào năm 1975 là hiệp định về mậu dịch quốc tế các loài
sinh vật có nguy cơ bị tiêu diệt (Convention on International Trade in
Endangered Species = CITES) dưới sự bảo trợ của Chương trình
nghị sự của Liên Hiệp Quốc về môi trường
(United Nation Environmental Programme = UNEP), hiệp định nầy được
các hội đoàn săn bắn và khai thác của 93 quốc gia trên thế
giới ký kết và đưa ra danh sách gồm 700 loài đang bị đe dọa và
có nguy cơ tuyệt chủng.
Những
qui định ràng buộc trong các hiệp định đã được ký kết đã
làm giảm đi sự buôn bán trái luật pháp đối với các loài hoang
dã cần được bảo vệ. Một số quốc gia như Hoa kỳ, Canada và
Liên xô tuân thủ và thực hiện nghiêm túc các hiệp định và đã
thành công trong việc bảo vệ được một số loài thoát khỏi
nguy cơ tuyệt chủng. Tuy nhiên cũng có một vài quốc gia chưa
thực sự quan tâm về việc bảo vệ những loài sinh vật hoang dã
nên thường xảy ra những hoạt động vi phạm các điều khoản đã
được ký kết trong hiệp định, điều này làm cho việc bảo vệ
các loài hoang dã không mang lại kết qủa mong muốn.
Hơn
nữa hình phạt về việc mua
bán sinh vật hoang dã còn nhẹ đối với người phạm tội dẫn
tới tệ nạn buôn lậu càng phát triển hơn vì lợi nhuận cao
của nó, chẳng hạn như năm 1979 tại Hồng Kông người ta đã
bắt giử một người Ethiopie buôn lậu 319 bộ da của một loài Báo
đốm Châu Phi có trị giá 160.000 USD nhưng chỉ bị phạt có 1.540
USD. Singapore được coi là trung tâm quốc tế trong việc trung
chuyển những loài hoang dã và các sản phẩm của nó từ nhiều
quốc gia ra các nước ngoài, hiện tượng nầy cũng xảy ra ở
một số nước không có ký kết vào các hiệp định(Miller,
1988).
Ở
Việt Nam, do nhiều nguyên nhân như chiến tranh, đốt phá rừng,
khai thác rừng bừa bãi, săn bắt quá mức, môi trường sống bị
phá hủy hoặc thu hẹp, giảm nguồn thức ăn... nên nguồn tài nguyên
sinh vật giảm sút đáng kể, nhiều loài trở nên hiếm hoặc có
nguy cơ tuyệt chủng. Ðược sự hổ trợ
và phối hợp của các chuyên gia từ các tổ chức quốc tế
IUCN, ICBP, WWF và NYZS (Hội Ðộng vật Newyork) đã tiến hành các công
trình nghiên cứu và dự kiến số lượng các loài sinh vật được
đưa vào sách Ðỏ của Việt Nam gồm: 78 loài thú, 83 loài chim, 54
loài bò sát và lưỡng cư, 37 loài cá biển, 38 loài cá nước
ngọt, 45 loài sinh vật biển, 23 loài động vật không xương sống
nước ngọt, 2 loài động vật đất, 4 loài côn trùng và 360 loài
thực vật các loại và trong quá trình bảo vệ đã cứu được 3
loài thú thoát khỏi nguy cơ tuyệt chủng như loài Hươu sao (Cervus
nippon), Voi (Elephas maximus) và Khỉ vàng (Macaca mulatta).
Quản
lý động vật hoang dã bao hàm việc bảo vệ sự thịnh vượng và
nơi cư trú của loài hoang dã, nhưng sự thịnh vượng của nó không
ảnh hưởng đến sự thịnh vượng của các loài khác.
Tiến
trình quản lý phải được tiến hành theo từng giai đoạn, mà
giai đoạn đầu tiên của tiến trình là phải xác định là loài
nào, thậm chí là một nhóm cá thể của loài đó cần phải bảo
vệ, sau đó là việc chọn nơi thích hợp nào đó để bảo vệ chúng
và khi tiến hành quản lý phải theo đúng kế hoạch nhằm đạt
được mục tiêu mong muốn. Sự hiểu biết trong kế hoạch quản lý
dựa trên cơ sở của sự hiểu biết về những đặc điểm sinh
học của loài cần bảo vệ như thành phần tuổi, tỉ lệ giới tính,
chỉ số sinh sản, chỉ số tử vong, khả năng tự vệ và khả năng
thích nghi với môi trường, các nhu cầu về thức ăn, nước, không
gian, nhiệt độ,... và khả năng biến động của quần thể;
những thông tin nầy có khả năng thu thập được như phải có
theo dỏi kiểm tra về độ tin cậy của chúng. Chính những sự đòi
hỏi phải thực hiện đúng những điều kiện của tiến trình nên
điều nầy có thể giải thích được tại sao nói quản lý động
vật hoang dã vừa là một công việc có tính khoa học và vừa mang
tính nghệ thuật.
a.
Quản lý sự thịnh vượng
của các động vật hoang dã
Quản
lý sự thịnh vượng của các loài hoang dã bao gồm về số lượng,
giới tính, tuổi và sự phân bố của chúng trong khu vực quản lý
bằng biện pháp là kiểm soát chặt chẻ sự săn bắt và những
hoạt động có nguy cơ làm ô nhiễm và xáo trộn môi trường
sống ảnh hưởng đến sự sinh trưởng và phát triển của loài
được bảo vệ. Ở một số
quốc gia phát triển như Hoa kỳ, Canada, Thụy điển... tiến hành
quản lý bảo vệ các loài hoang dã bằng luật pháp và xác định
chính xác thời gian nào trong năm mới cho săn bắn, qui định cụ
thể các phương tiện săn bắn chẳng hạn như cung tên, súng
ngắn, súng trường; giới hạn khu vực và thời gian săn bắn; loài
nào được phép săn bắn; giới
hạn số lượng, kích thước, giới tính của loài nào được cho
phép săn; mỗi người đi săn
thể thao phải có giấy phép.
Các
nhà quản lý còn phải có những biện pháp hữu hiệu để quản lý
hoặc loại trừ những loài động vật hoang dã có hại cho các lĩnh
vực trồng trọt và chăn nuôi, gây nguy hiểm cho những thợ săn,
những người khai thác lâm sản và những nhóm người khác có
hoạt động gần với khu vực quản lý bằng nhiều biện pháp khác
nhau như loại trừ chúng bằng cách săn bắn, dùng bẩy hoặc đánh
thuốc độc; hoặc làm hàng rào bảo vệ để giới hạn vùng
quản lý hoặc chuyển chúng
đến một nơi nào khác để bảo vệ ( Miller, 1988 )
b.
Quản lý nơi cư trú của các loài hoang dã cần bảo vệ
Các
loài động vật hoang dã có thể phát triển thịnh vượng được
hay không còn tùy thuộc vào những điều kiện sống trong khu vực
bảo vệ như các yếu tố của khí hậu, nước, những loài thực
vật làm thực phẩm mà chúng ưa thích và mối quan hệ giữa chúng
với các loài khác trong cộng đồng không để xảy ra sự xáo
trộn môi trường sống của chúng.
Có
hai phương pháp quản lý nơi cư trú của các loài hoang dã là
quản lý định vị (in Situ)và quản lý chuyển vị (ex Situ); trong
quản lý định vị có nhiều lợi điểm hơn so với quản lý
chuyển vị vì không làm thay đổi các điều kiện sống và mối
quan hệ của chúng với các loài khác trong cộng đồng.
c.
Quản lý các loài di cư
Những
loài động vật di cư, phần lớn là các loài chim nước như Vịt
trời, Ngổng trời, Thiên Nga... cần phải có một sự quản lý
hết sức đặc biệt đối với những quốc gia trên đường di cư
của chúng. Chẳng hạn như
ở Canada, hầu hết các loài nầy chỉ sống tại đây vào mùa hè
và chúng thường di cư đến các quốc gia ở phía nam như Hoa kỳ và
các quốc gia ở Trung Mỹ, trên dường di cư của chúng lại rơi đúng
vào mùa săn bắn vì vậy đây là mối đe dọa đối với những loài
di cư.
Năm
1932, một hội nghị được tổ chức bao gồm các quốc gia có
chung nguồn tài nguyên nầy nhằm mục đích hạn chế việc săn
bắn và đồng thời qui định những điều kiện cho các loài di cư
đến trú ngụ. Theo những điều qui định trong công ước thì
những nhà đi săn phải có giấy phép gọi là Duck stamp cho mỗi năm,
việc bán các giấy phép nầy mang lại 300 triệu USD cho mỗi mùa săn,
số tiền thu được nầy dùng vào việc nghiên cứu về chúng, dùng
cho việc bảo vệ và phát triển nguồn tài nguyên nầy như: ngoài
việc bảo vệ những đầm lầy hiện có còn có thể mở thêm
những đầm, kênh nhân tạo để tăng thêm nơi ở, nơi sinh sản và
nơi hoạt động của chúng.
Công ước về các loài di cư đề ra nghĩa vụ cho các nước
tham gia phải bảo vệ các loài di cư bị đe dọa và khi chúng gặp
tình trạng bất lợi. Các hiệp nghị khu vực và song phương về các
loài di cư cho thấy là các công ước quốc tế về các loài di cư
là biện pháp duy nhất có hiệu quả để bảo vệ các loài vượt
qua biên giới của nhiều quốc gia.
Hiện
nay việc kinh doanh đánh bắt cá chưa được quản lý đúng mức để
sử dụng lâu dài vì vậy sự đóng góp cuả nghề cá vào nguồn
thực phẩm và tài chính của các quốc gia có nguy cơ ngày càng
giảm sút. Việc đánh cá quá mức trong quá khứ và hiện tại đem
lại hậu quả là sản lượng đánh bắt hằng năm bị giảm sút
từ 15 -20 triệu tấn và ít nhất có 25 vùng đánh cá quan trọng
của thế giới bị nghèo kiệt đi một cách nghiêm trọng. Sự
việc nầy xảy ra ở Tây bắc Ðại Tây Dương là một minh họa là
sản lượng cá từ 4,3 triệu tấn ở năm 1970 tụt xuống còn 3,5
triệu tấn ở năm 1976. Không ai có thể khẳng định rằng liệu các
đàn cá bị kiệt quệ đó có khả năng được phục hồi lại
được không?, bởi vì cả cá con cũng bị đánh bắt để làm
bột cá cùng lúc với các loài thuộc đối tượng đánh bắt, động
thái cuả hệ sinh thái có thể bị thay đổi và một loài khác có
thể thay thế loài bị kiệt quệ vì nó không còn đủ sức cạnh
tranh, hơn nữa bãi sinh nở và các nơi sinh sống cuả cá con là
những vùng sinh trưởng chủ yếu bị thoái hóa hoặc bị phá hủy
do sự ô nhiểm và do sự tàn phá của con người.
a. Quản lý nghề cá nước ngọt
Mục
tiêu của quản lý cá nước ngọt là thúc đẩy sự sinh trưởng và
phát triển của các loài cá được khai thác và đồng thời làm
giảm đi hoặc loại bỏ những loài cá không được ưa chuộng
hoặc có hại, đây là ước vọng của những người làm nghề
khai thác cá thương mại và của những người ưa thích môn
thể thao câu cá.
Nhiều
điều luật được đặt ra và thay đổi theo từng quốc gia, nhưng
tựu trung đều bao hàm những luật định như sau: qui định thời
gian kéo dài cuả mùa khai thác cho từng loài cá, qui định kích thước
cá cho phép đánh bắt, mức độ đánh bắt, độ lớn cuả mắt lưới
đúng với kích cở cuả cá trưởng thành để tránh cho cá con không
bị thu hoạch, không sử dụng điện, chất nổ hoặc hóa chất độc
để đánh bắt cá, bảo vệ nơi sinh sống và các bãi sinh sản,
bảo vệ các ao hồ thoáng mát, có thực vật thủy sinh sinh sống
để cung cấp oxygen nơi đáy sâu, kiểm soát ký sinh và dịch
bệnh, tránh sự ô nhiểm và tránh mọi hoạt động làm ngăn trở sự di cư nhất là sự di cư đến nơi sinh sản
...có khi còn cấm cả việc khai thác tại một vùng nào đó hoặc
một loài cá nào đó khi chúng đứng trước nguy cơ
cạn kiệt.
b.
Quản lý nghề đánh cá biển
Theo
lịch sử cuả ngành khai thác cá biển và kỷ nghệ săn bắn cá
voi đã đạt sự thành công rất đáng kể thì đó cũng là tấm
thảm kịch chung cho nhân loại vì nguồn tài nguyên nầy đang bị
giảm sút nghiêm trọng và đang đứng trước nguy cơ cạn kiệt.
Việc đánh cá quá mức là mối đe dọa chính đối với các
nguồn tài nguyên sinh vật biển, nó xảy ra ở từng điạ phương
trên tất cả các vùng của thế giới nhưng rõ nét nhất là ở các
vùng biển do các nước phát triển khai thác, được biết có ít
nhất 5 trong 8 vùng như vùng Tây
bắc Ðại tây dương, Ðông bắc Ðại tây dương, Ðiạ trung hải,
Tây bắc Thái bình dương và Ðông bắc Thái bình dương đều bị
các nước phát triển khai thác đến kiệt quệ gồm Pháp, Nhật,
Ba lan, Tây ban nha, Liên xô và Nam phi.
Nếu việc đánh cá quá mức đã làm kiệt quệ nhiều vùng cá
trên thế giới, nó còn dẫn tới vực thẩm diệt vong cuả những
loài khác như các động vật
thân mềm, rùa biển, cá voi và vô số các động vật có xương
sống và không xương sống khác. Việc giết chết những loài ngoài
đối tượng săn bắn và đánh bắt là một trong những vấn đề
có tính chất phá hoại nhất (thế nhưng thường được bỏ qua)
đối với việc quản lý tài nguyên dưới nước, người ta ước
tính rằng hằng năm có hàng
triệu con chim biển bất ngờ
bị sa vào lưới và chết đuối.
Ngoài
ra, các khu vực ven biển và các vùng cửa sông đặc biệt là các
vùng nước nông và các rừng ngập mặn là nơi cung cấp thức ăn,
nơi trú ngụ và sinh sản của các động vật biển và cả
động vật nước ngọt phục vụ cho 2/3 sản lượng của công
nghiệp cá; các bãi rong biển là nơi nuôi sống cá loài cá có giá
trị kinh tế, các bãi san hô là nơi sinh trưởng và nơi lẩn trốn
của chúng khi gặp nguy hiểm hiện nay đều bị phá hủy, đều đó
dẫn tới hậu quả rất nghiêm trọng đến nguồn lợi thủy hải
sản và làm sụt giảm năng suất khai thác của nghề cá. Ở Hoa
kỳ, việc phá hủy các vùng ẩm ướt ven biển đã gây thiệt
hại cho ngành đánh cá biển 86 triệu USD hằng năm; còn ở
Srilanka, việc khai thác đá vôi ở các đảo san hô để lấy
vôi đã nghiêm trọng tới mức là nghề đánh cá điạ phương không
còn cách để sinh sống.
Như
vậy, đối với ngành công nghiệp đánh cá biển ngoài nhưng qui định
về vùng đánh bắt, phương tiện đánh bắt, đối tượng và kích
cở cuả những đối tượng cho phép đánh bắt...còn phải có
những biện pháp ngăn chận và phục hồi
các vùng cửa sông, các vùng ẩm ướt ven biển và các bãi
san hô...