PREVIOUSINDEXNEXTHOME
 

 

CHƯƠNG V

 

LIPID VÀ ACID BÉO

1. GIỚI THIỆU

2. CHỨC NĂNG CỦA CÁC LIPID

2.1. Cung cấp năng lượng

2.2.  Hoạt hóa   và cấu thành enzyme

2.3. Tham gia cấu trúc màng tế bào

2.4. Hỗ trợ hấp thụ các lipid khác

2.5.Vận chuyển các vitamin  và một số chất khác

3. SỰ TIÊU HOÁ VÀ HẤP THU LIPID

3.1. Sự tiêu hóa và hấp thụ

3.2. Độ tiêu hóa lipid trong thức ăn

4. NHU CẦU LIPID CỦA ĐỘNG VẬT THỦY SẢN

5. ACID BÉO (FATTY ACID)

5.1 Cách gọi rút gọn của acid béo

5.2. Thành phần acid béo trong sinh vật thuỷ sinh

5.3. Sinh tổng hợp acid béo của động vật thủy sản

6. NHU CẦU ACID BÉO THIẾT YẾU

7. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN THÀNH PHẦN ACID BÉO

7.1 Độ mặn

7.2 Nhiệt độ

7.3 Thức ăn

8.  PHOSPHOLIPID VÀ NHU CẦU PHOSPHOLIPID

9. CHOLESTEROL VÀ NHU CẦU CHOLESTEROL

 

1. GIỚI THIỆU

 

 

        Lipid là một trong những thành phần sinh hóa cơ bản của động thực vật. Các thành phần của thức ăn thường được tập trung nghiên cứu là protein, lipid, glucid và một số vitamin. Trong đó lipid đóng vai tṛ quan trọng như là nguồn cung cấp năng lượng (8-9 kcal/gam) và các acid béo cần thiết cho quá tŕnh sinh trưởng và phát triển của động vật thủy sản. Lipid trong thức ăn cũng đóng vai tṛ như là chất vận chuyển vitamin tan trong dầu và sterols. Ngoài ra trong thành phần của lipid có phosphollipid và sterol ester tham gia vào quá tŕnh sinh tổng hợp màng tế bào

Với vai tṛ của lipid quan trọng như vậy, nên lipid hiện nay là một vấn đề đang được quan tâm nghiên cứu để nâng cao chất lượng thức ăn cho ĐVTS, Nhiều kết quả nghiên cứu về nhu cầu các acid béo của ĐVTS đă được công bố và ứng dụng vào thực tế sản xuất đem lại hiệu qủa cao. Nhiều nghiên cứu cho thấy lipid có ảnh hưởng rất lớn đến sinh trưởng của ĐVTS, đặc biệt là ở giai đoạn ấu trùng và giống. Ở giai đoạn nuôi vỗ thành thục thức ăn được bổ sung nguồn lipid thích hợp sẽ nâng cao sức sinh sản của ĐVTS cũng như chất lượng của giống

Lipid là một hợp chất hữu cơ có chức năng và thành phần hóa học khác nhau được ly trích từ động và thực vật nhờ các dung môi ether, chloroform, metanol...  Sự phân chia các nhóm lipid dựa trên tính chất vật lư hơn là cấu trúc hóa học, hiện chưa có sự thống nhất chung về hệ thống  phân loại lipid.  Mac Donald và ctv (1988) đă đưa ra một hệ thống phân loại lipid như sau:

 

  

 

 

H́nh 5.1: Phân loại lipid theo Mac Donald và ctv (1988)

 

       

Lipid c̣n được chia thành hai nhóm lớn là phân cực và không phân cực. Nhóm phân cực có thể ḥa tan trong chloroform, trong khi nhóm không phân cực (thường là phospholipid) hoà tan trong dung môi là hexane.  Nhóm lipid không phân cực chủ yếu là nhóm cung cấp năng lượng: triglyceride, các sterol ester , alkyldiacyl glycerol và sáp.

Nhóm phân cực gồm chủ yếu là nhóm phospholopid có nhiệm vụ v́ nó tham gia vào cấu trúc của tất cả các màng cơ bản và giữ vai tṛ quan trọng trong sự vận chuyển và hấp thụ lipid và tham gia vào các quá tŕnh biến dưỡng trung gian trong cơ thể sinh vật: Phosphotidylserine (PS), Phosphotidylethanolamine (PE), Phosphatidylcholine (PC), Plasmalogens,  Sphingomyaline, Cerebroside, Ganglioside,Phosphotidylinositol (PI)

 

2. CHỨC NĂNG CỦA CÁC LIPID

 

2.1. Cung cấp năng lượng

 

 

            Lipid là nguồn dinh dưỡng cung cấp năng lượng tốt nhất cho ĐVTS, sự chia sẻ năng lượng từ protein của lipid được chứng minh trên nhiều loài ĐVTS. Việc bổ sung lượng lipid thích hợp sẽ giảm nhu cầu protein. Triglyceride là thành phần chính và chủ yếu cung cấp nguyên liệu cho quá tŕnh oxy hóa tạo năng lượng ở  ĐVTS. Năng lượng thức ăn không được sử dụng ngay mà thường được dự trữ dưới dạng glycogen và mỡ. Động vật thủy sản dự trữ lipid với lượng rất lớn ở gan, cơ, giáp xác ở gan tụy.  Ngoài ra một số loài cá dự trữ mỡ dưới dạng mô mỡ bao quanh ruột như cá chép, rô phi, tạo thành lá mỡ như ở basa.

 

2.2.  Hoạt hóa   và cấu thành enzyme

 

 

     Lipid, đặc biệt là phospholipid có khả năng hoạt hóa enzyme. Ví dụ phosphattidyl choline có khả năng hoạt hóa enzyme glucose 6 phosphatase, Adenogentriphosphatase (ATPase). Lipid là thành phần chính của nhiều hormon là steroid. Ngoài ra một số PUFA acid béo cao phân tử không no (PUFA) là tiền thân của prostaglandin ở tôm cá, prostaglandin là họ acid béo 5 mạch ṿng, số lượng rất nhỏ, hoạt động giống như hormone. 

 

2.3. Tham gia cấu trúc màng tế bào

 

 

         Lipid phân cực hay phospholipid có một vai tṛ rất quan trọng trong dinh dưỡng v́ nó tham gia vào cấu trúc của tất cả các màng tế bào. Cấu trúc cơ bản của các màng tế bào này là hai lớp của những phân tử phosphoglyceride trong đó đuôi không phân cực xếp đối diện và chồng với đuôi kỵ nước của một phospholipids và chúng xếp ở giữa màng cơ bản, trong khi hai chiều ưa nước xếp ở mặt ngoài tạo nên hai bề mặt trong và ngoài của màng cơ bản. Trong màng cơ bản những đại phân tử protein sắp xếp xuyên qua màng cơ bản và liên quan đến khả năng vận chuyển những vật liệu qua màng.

 

2.4. Hỗ trợ hấp thụ các lipid khác

 

 

           Phospholipid giữ vai tṛ quan trọng trong sự vận chuyển và hấp thụ lipid và tham gia vào các quá tŕnh biến dưỡng trung gian trong cơ thể sinh vật. Phospholipid đóng vai tṛ như chất nhũ tương hóa giúp các acid béo, muối mật và các chất ḥa tan trong chất béo gắn vào các hạt micelle nhỏ li ti. Nhờ đặc tính có hai đầu phân cực: kỵ nước và hiếu nước, nên các phospholipid nằm bên ngoài các hạt micelle gắn các sản phẩm thủy phân của lipid vào. Sự vận chuyển các hạt micelle qua màng tế bào nhờ liên kết của các hạt micelle với hai lớp phospholipid của các màng cơ bản nên các sản phẩm thủy phân của lipid được đưa qua màng tế bào và hấp thụ vào hệ bạch huyết. Như vậy, phospholipd có một vai tṛ quan trọng trong sự hấp thu chất béo.

 

2. 5. Vận chuyển các vitamin  và một số chất khác

 

Lipid là dung môi ḥa tan các vitamin tan trong trong dầu như  A, D, E, K và hydrocarbon. Do đó trong khi hấp thu và vận chuyển trong cơ thể lipid cũng mang theo các chất ḥa tan trong lipid.

 

3. SỰ TIÊU HOÁ VÀ HẤP THU LIPID

 

3.1. Sự tiêu hóa và hấp thu

 

 

       Đối với cá, gan giữ vai tṛ quan trọng trong tiêu hóa lipid, gan tiết ra mật và dự trữ trong túi mật, khi thức ăn đến ruột th́ mật  được tiết vào ruột. Muối mật có tác dụng nhũ tương hóa chất béo và làm tăng bề mặt tiếp xúc của lipid với enzym tiêu hóa.

 

            Enzym tiêu hóa lipid được t́m thấy ở tụy, manh tràng và ruột trước. Lipase phân giải triglyceride thành glycerol và các acid béo. Có một số yếu tố kích thích hoạt lực Lipase bao gồm Ca2+, Peptidase nhưng quan trọng nhất là những muối mật. Những muối mật này có tác dụng như một chất tẩy ---> làm gia tăng diện tích tiếp xúc của những chất béo từ đó làm gia tăng lực Lipase. Trong trường hợp những lipid phức tạp c̣n có thêm một lượng phosphoric acid và các bazơ. Các este của sterol được thủy phân tạo ra các acid béo và sterol tự do.

Những sản phẩm của quá tŕnh tiêu hóa dễ ḥa tan trong nước như các acid béo ngắn và choline được trong nước nên được hấp thụ trực tiếp vào lớp mucosa ruột. Các acid béo có chuỗi carbon dài và muối mật không ḥa tan trong nước chúng liên kết tạo thành các hạt nhỏ micelle có kích thước 50 - 100 A0 phân tán nhỏ trong nước. Những hạt micelle được hấp thu vào thành ruột qua các tế bào hấp thụ. Trong thành ruột những monoglyceride và các acid béo chuỗi carbon dài trên 14 đơn vị được tái tổng hợp thành triglycerides.

Các triglyceride tái tổng hợp cùng một lượng nhỏ phospholipid và các cholesterol tự do qua thành ruột được vận chuyển trong hệ mao mạch ở dạng liên kết với các phân tử protein tạo nên phức hệ lipoprotein có kích thước nhỏ bé, thường được gọi là những chylomicron. Các phức hệ chylomicrons được hấp thu qua hệ mao mạch sau đó đến gan và các cơ quan như cơ để biến dưỡng tạo năng lượng cho hoạt động hay đến các cơ quan dự trữ như màng treo ruột hay gan.

 

Sơ đồ tác dụng của các enzyme lên sự tiêu hóa lipid (triglycerides)

                                                (Theo Moreau,1988)

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


         

 

Đối vối giáp xác, có cả hai  enzym tiêu hóa lipid là  lipise và esterase. Đối với enzime phân giải chất béo ở  Astacas là  esterase có tác động mạnh trên những ester của acid béo bậc thấp hoặc những alcohol.  Ngược lại ở tôm hùm, enzime phân giải chất mỡ là lipase v́ nó tác động lên mỡ mạnh hơn những ester. Nhưng trong cùng một loài có khi enzime phân giải chất mỡ là esterase nhưng cũng có lipase như ở tôm sú .

 

 

3.2. Độ tiêu hóa lipid trong thức ăn

 

 

Chất lượng của lipid được đánh giá dựa vào thành phần và hàm lượng acid béo trong thức ăn. Lipid trong thức ăn có độ tiêu hóa cao trung b́nh 85% - 90%. Độ tiêu hóa lipid thay đổi theo nhiều yếu tố. Trước hết là tính chất của acid béo cấu tạo nên lipid đó và tỉ lệ của lipid trong thức ăn.

 

Teshima và Kazanawa (1983) cho biết tôm P. japonicus có khả năng tiêu hóa 80% lipid từ thức ăn có hàm lượng lipid 8% với các loại lipid: dầu động thực vật, palmitic acid, tripalmitin và lecithin từ trứng. Triglycerol trong dầu đậu nành, dầu cá, dầu mực được tiêu hóa dễ dàng 96,1- 98% đối với tôm sú giống (Merican và Shim, 1995). Tuy nhiên độ tiêu hóa giữa các nhóm acid béo cũng khác nhau, khả năng tiêu hóa những lipid có hàm lượng acid béo no cao th́ kém hơn lipid hàm lượng acid béo không no mạch dài. Khả năng tiêu hóa của mỗi loại acid béo chịu ảnh hưởng bởi hàm lượng acid béo khác trong lipid (Harrison, 1990). Ở tôm sú,  nhóm dầu cá biển được tiêu hóa 91-100%, trong khi nhóm dầu đậu nành được tiêu hóa 78-95% và dầu cọ được tôm tiêu hóa kém nhất 63-93%. 

 

 Các thành phần khác trong thức ăn cũng ảnh hưởng đến độ tiêu hóa lipid. Thức ăn có nhiều chất xơ sẽ làm giảm độ tiêu hóa, hay lượng lipid trong thức ăn tăng lên quá cao và số lượng thức ăn tăng lên có tác dụng giảm khả năng tiêu hóa của lipid. Ngoài ra nhiệt độ có ảnh hưởng đến độ tiêu hóa của lipid.

 

4. NHU CẦU LIPID CỦA ĐỘNG VẬT THỦY SẢN

 

Nhu cầu lipid của động vật thủy sản được xác định dựa vào nhu cầu về năng lượng, yêu cầu về acid béo cần thiết, nhu cầu về phospholipid và cholesterol và đặc điểm sống và dự trữ lipid của loài. Tôm cá có nhu cầu năng lượng thấp hơn động vật trên cạn và có thể sử dụng protein để làm năng lượng. Kết quả nghiên cứu về nhu cầu lipid trong thức ăn cho giáp xác cho thấy tỷ lệ sống và sinh trưởng của tôm đạt cao nhất là 5-8%. Đối với cá, hàm lượng lipid thay đổi tùy theo loài, tuy nhiên mức đề nghị từ 6-10%.

Ngoài ra nhu cầu này phụ thuộc rất lớn vào hàm lượng và chất lượng protein, hàm lượng và chất lượng của nguồn cung cấp năng lượng khác, và ngay cả chất lượng của dầu.  Tỉ lệ protein và lipid được đề nghị cho tôm cá là 6-7:1

 

Bảng 5.1. Mức sử dụng tối đa lipid trong thức ăn trên một số loài cá

Giống loài

% lipid thức ăn

Giống loài

% lipid thức ăn

Chép

Rô phi

Cá trơn Mỹ

Cá trê phi

Cá tra

12-15

< 10

7-10

7-10

4-8

Cá hồi

Cá chẽm

Cá mú

Cá vền biển

Cá bơn Atlantic

18-20

13-18

13-14

12-15

<15

 

Đối với tôm biển th́ nguồn dầu cá biển, dầu mực, dầu nhuyễn thể sẽ tốt hơn là nguồn dầu bắp, dầu đậu nành. Đối với tôm P. japonicus tốc độ sinh trưởng sẽ gia tăng khi bổ sung 4% dầu cá trích hay dầu hầu (Guary và ctv, 1976), trong khi đó ở tôm P. serratus là 4% dầu cá tuyết (Martin, 1980). Khi  hàm lượng lipid quá cao làm ảnh hưởng đến sự tăng trưởng của tôm,  (D’Abrano, 1997) cho biết có mối tương quan chặt giữa hàm lượng lipid trong thức ăn và lipid trong ruột, khi hàm lượng lipid trong thức ăn quá cao, dẫn tới hàm lượng lipid trong ruột tăng và làm giảm khả năng trao đổi chất của giáp xác, từ đó ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng. 

 

Bảng 5.2: Nhu cầu lipid của một số loài tôm cá

Loài

Nguồn lipid

Mức lipid

Mức tốt nhất

Tác giả

Homarus americanus

Dầu gan cá

1, 5, 10, 15

5%

Castell và Covey (1975)

Procambarus acutus

Dầu cá

0,3, 6, 9, 12, 15

 9% hoặc mức lipid cao hơn

Davis và Robinson (1986)

He Nhật bản

Dầu gan cá + Dầu đậu nành

3, 6, 9, 12

6%

Deshimaru và ctv (1979)

Tôm càng xanh

Dầu gan cá  và dầu bắp (1:1)

0, 2, 4, 6, 8, 10, 12

6%

Sheen và D’ Abramo (1991)

Tôm sú

Dầu mực, dầu cá

-

6-7.5

Abramo (1997)

 

5. ACID BÉO (FATTY ACID)

 

Sự khác biệt giữa các loại lipid là thành phần và tỉ lệ các acid béo.Trong tự nhiên có khoảng hơn 100 acid béo, các acid béo khác nhau về độ dài và mức độ không no. Acid béo tồn tại rất ít  ở trạng thái tự do hoặc izonized gọi là acylate, c̣n lại phần lớn là trạng thái ester hóa như kết hợp của các loại lipid.

 

5.1 Cách gọi rút gọn của acid béo:

 

 

-                     Chỉ số đầu tiên biểu thị số lượng carbon trong chuỗi acid béo

-                     Chỉ số thứ hai chỉ số lượng nối đôi trong chuỗi acid béo

-                     Chỉ số thứ ba, sau n hoặc w cho biết vị trí đầu tiên của nối đôi kể từ gốc methyl (CH3), đây là điểm khác biệt ở dinh dưỡng ĐVTS. Trong sinh hóa và các nhà dinh dưỡng động vật th́ vị trí nối đôi bắt đầu từ gốc carboxylic (COOH).

 

Ví dụ:

Oleic acid (Octadecenoic acid): 18: 1n –9 hoặc 18:1D9

            CH3-(CH2)7-(CH= CH)-(CH2)7-COOH

 

Linoleic acid (Octadecadienoic acid): 18:2n-6 hoặc  18:2D9,12

 CH3-(CH2)4-(CH-CH)-CH2-(CH= CH)-(CH2)7-COOH

 

Linolenic acid (Octadecatrienoic acid): 18: 3n-3hoặc  18:3D9,12,15

            CH3-CH2-CH= CH-CH2-CH= CH-CH2-CH= CH-(CH2)7-COOH

 
Bảng 5.3: Một số acid béo thông thường trên động vật thuỷ sản

 

Stt

Tên gọi nhanh

Tên thông thường

Tên qui ước quốc tế

01

14:0

Myristic

Tetradecanonic

02

16:0

Palmitic

Hexadecanoic

03

18:0

Stearic

Octadecenoic

04

18:1n-9

Oleic

Cis-9-octadecenoic

05

18:2n-6

Linoleic

9,12-octadecadienoic

06

18:3n-3

Linolenic

9,12,15-octadecatrienoic

07

20:4n-6

Arachidonic (AA)

5,8,11,14-eicosatetraenoic

08

20:5n-3

Eicosapentaenoic (EPA)

5,8,11,14,17-eicosapentaenoic

09

22:6n-3

Docosahexenoic (DHA)

4,7,10,13,16,19-docosahexenoic

 

 

       Dựa vào vị trí nối đôi đầu tiên so với gốc methyl, các acid béo được xếp vào các họ:

      

Palmitoleic acid (n7) :16:1n7; 18:1n7.

       Oleic acid (n9)          : 18:1n9; 20:1n9.

       Linoleic acid (n6)      : 18:2n6; 18:3n6; 20:3n6; 20:4n6; 22:4n6.

Linolenic acid (n3)    : 18:3n3; 20:5n3; 22:5n3; 22:6n3.

5.2. Thành phần acid béo trong sinh vật thủy sinh:

 

Là các acid béo mạch dài gồm từ 4-24 carbon và một nhóm carboxyl. Đối với động vật thủy sinh hầu hết các acid béo chứa đựng từ 12-22 carbon dạng mạch thẳng. Khác với động vật trên cạn, lipid của động vật thủy sản chứa nhiều các acid béo cao phân tử không no, đặc biệt là nhóm n-3, n-6. Những linoleic acid (n-6) và linolenic acid (n-3), tức là nhóm acid béo không no có mạch carbon dài từ 18C trở lên và có ít nhất 2 nối đôi  được gọi tên là PUFA (polyunsaturated fatty acid) và những acid béo có chuỗi carbon dài từ 20 carbon trở lên và có ít nhất 3 nối đôi như 20:3n-3; 22:4n-3; 20:2n-6; 22:3n-6 được gọi tên là HUFA (highly unsturated fatty acid). Những HUFA và PUFA hiện diện rất phổ biến và phong phú trong chuỗi thức ăn thủy vực

5.3. Sinh tổng hợp acid béo của động vật thủy sản

 

 

            Động  vật thủy sản có khả năng sinh tổng hợp một số acid béo như các acid béo không no từ acetate, acid beo không no thành acid béo không no một nối đôi. Tuy nhiên khác với thực vật động vật thủy sản không có khả năng tăng số nối đôi về phía gốc methyl (CH3) mà chỉ có thể cộng về phía gốc COOH, v́ vậy các acid béo không bảo ḥa không thể được tổng hợp nếu thiếu tiền chất trong thức ăn. Lư do là động vật thủy sản thiếu enzym desaturated.

 

Ví dụ:

Thực vật:

              

 

Động vật thủy sản:

              

 

Các thử nghiệm chứng tỏ trên cá, linolenic acid (18:3n-3) và linoleic acid (18:2n-6) rất quan trọng và là tiền chất cho sự tổng hợp các acid béo khác thuộc họ n3 và n6. Từ hai tiền chất 18:2n6 và 18:3n3 cá có thể sinh tổng hợp một loạt các acid béo họ n3 và n6 bằng cách mỗi lần kéo dài thêm hai đơn vị carbon hay tăng số nối đôi lên nhịp CH= CH-CH2-CH= CH về phía đầu carboxyl. Như vậy, có thể kết luận trên cá và các động vật thủy sản linolenic acid và linoleic acid là hai acid béo thiết yếu.

 

Một vài nghiên cứu cho thấy khả năng sinh tổng hợp acid béo của giáp xác là yếu. Kanazawa và ctv (1979) đă nghiên cứu và khám phá ra rằng P. japonicus có thể chuyển đổi 16:0 thành một acid béo không no khác hoặc là acid béo có một nối đôi. Tuy nhiên, rất ít hoặc không t́m thấy loại acid béo no 16:0 được đánh dấu trong 18:2n-6, 18:3n-3, 20:5n-3 và 22:2n-6. Một vài nghiên cứu khác cho biết giáp xác rất ít hoặc không có thể tổng hợp n-3 và n-6 HUFA từ n-6 và n-3 PUFA. Theo Read (1981), tôm P. indicus khả năng giới hạn tổng hợp các acid béo mạch dài và chuyển hóa acid béo nhóm linoleic và linolenic thành 20-22 C HUFA. Colvin (1976) khi so sánh thành phần acid béo của tôm thí nghiệm và tôm ngoài tự nhiên đă chứng minh khả năng giới hạn tổng hợp 18:2n-6 hoặc n-3 thành 20:n-6 hoặc 20:n-3 của tôm. Kết quả này cũng được chứng minh tương tự trên tôm P. setiferus, P. azrecus và P. duorarum (Bottino và ctv, 1980).

 

 

Từ những nghiên cứu này cho thấy tôm phải được cung cấp nguồn lipid có thành phần acid béo thích hợp để gia tăng hiệu quả sử dụng lipid trong thức ăn.

             

 

 

H́nh 5.2 : Sơ đồ sinh tổng hợp các acid béo cao phân tử không no trên Động vật thủy sản (Castell 1979)

 

6. NHU CẦU ACID BÉO THIẾT YẾU

 

 

Khi xem xét nhu cầu acid béo thiết yếu (essential fatty acid –EFA) thường dựa vào thành phần acid béo của thức ăn tự nhiên nơi ĐVTS sinh sống và thành phần acid béo của chính ĐVTS. Nhóm thức ăn cơ sở của hệ sinh thái biển là tảo đơn bào, ở giai đoạn sinh trưởng lipid chiếm 20% (trọng lượng khô), trong đó 50% là nhóm acid béo n-3 cao phân tử không no (n-3 PUFA) như 20:5n-3, 22:6n-3. Tảo đơn bào là thức ăn quan trọng của giáp xác, động vật nổi và nhóm cá ăn thực vật ở biển. Do ĐVTS không có khả năng tổng hợp các acid béo này nên việc cung cấp các acid béo này vào thức ăn cho ĐVTS biển là cần thiết. Đối với nhóm tảo nước ngọt, nhóm acid béo n-6 phong phú hơn tảo biển. Nhóm cá nước ngọt có nhiều acid béo 18 carbon và n-6PUFA hơn cá biển.

 

Tất cả các nghiên cứu trên ĐVTS đều cho thấy ĐVTS yêu cầu acid béo n-3, như yêu cầu acid béo18:3n-3 là 1-2%. Yêu cầu đối với các acid béo mạch dài hơn (HUFA) như 20:n-3, 22:5n-3, 22-6n-3 thấp hơn, khoảng 0.5%. Nh́n chung trong ĐVTS yêu cầu được cung cấp cả hai nhóm acid béo n-3 PUFA và n-6 PUFA, tuy nhiên nhóm ĐVTS biển yêu cầu n-3 nhiều hơn, ngược lại nhóm ĐVTS  nước ngọt yêu cầu n-6 nhiều hơn.   Tỷ lệ n-3/n-6 thay đổi tùy theo loài và nguồn acid béo được cung cấp. Nhóm acid béo n-3 có chức năng chủ yếu là sinh tổng hợp các acid béo mạch dài, trong khi nhóm n-6 được sử dụng như nguồn cung cấp và dự trữ năng lượng.

 

Đối với giai đoạn ấu trùng, lipid đóng vai tṛ quan trọng bởi nó cung cấp các acid béo cần thiết. Các acid béo thiết yếu th́ rất quan trọng trong quá tŕnh phát triển, trao đổi chất, sinh lư và xây dựng cơ thể. Hàm lượng acid béo cần thiết ở giai đoạn ấu trùng cao hơn giai đoạn trưởng thành. Lipid tổng số và acid béo cần thiết th́ đóng góp trong suốt quá tŕnh biến thái của ấu trùng từ nauplii, zoea, mysis, poslarvae của tôm sú.

 Ở giai đoạn tôm giống, thức ăn chủ yếu của tôm là thức ăn chế biến nên việc cung cấp các acid béo cho tôm là cần thiết. Mức độ tăng trưởng của P. japonicus sẽ gia tăng khi bổ sung 1% của 18:2n-6 và 18:3n-3 vào thức ăn. Shewbart và Mies (1973) thử nghiệm mức độ từ 0,5-5% 18:3n-6 vào thức ăn công nghiệp cho tôm giống P. aztecus, kết quả là mức 2% cho tốc độ tăng trưởng cao nhất, dưới mức 2% sẽ làm giảm khả năng tăng trưởng của loài tôm này. Read (1981) đă t́m thấy bổ sung 1% của 18:2n-6 hoặc 18:3n-3 vào thức ăn sẽ cải tiến được mức độ tăng trưởng và tỷ lệ sống của tôm P. indicus. Sinh trưởng của tôm P. japonicus ăn thức ăn chứa nhiều 18:3n-3 th́ tốt hơn là nhiều 18:2n-6 (Gury và ctv, 1976). Trong khi đó Xu và ctv (1994) lại cho biết tốc độ sinh trưởng của tôm P. chinensis được cải thiện khi kết hợp hai nhóm acid béo này hơn là chỉ bổ sung một loại. Nhiều nghiên cứu cho thấy nhóm acid béo 20-22 Cacbon-HUFA được coi là có giá trị dinh dưỡng cao hơn nhóm 18 Carbon-PUFA. Xu (1994) cho biết tốc độ tăng trưởng của tôm P. chinensis được gia tăng khi bổ sung thức ăn giàu HUFA.

 Kazanawa và Teshima (1977) cho biết giá trị dinh dưỡng thấp của dầu đậu nành là do hàm lượng HUFA của dầu này rất thấp, nên phải kết hợp thêm dầu mực có hàm lượng HUFA cao để ương nuôi tôm biển. Tỷ lệ sống, sinh trưởng của tôm he Nhật bản được cải thiện khi bổ sung vào thức ăn 18:2n-6 kết hợp với 3% dầu giàu HUFA. 

Bảng 5.4: Tóm tắt nhu cầu các acid béo thiết yếu của một số loài tôm cá

 

Loài

               Nhu cầuacid béo 

(% trong khẩu phần khô)

Cá Nheo Mỹ

 

Cá Ch́nh Nhật

Rôphi

Chép

Cá bơn

Tôm he Nhật bản

 

Penaeus aztecus

Tôm càng xanh

Tôm sú

1 - 2%  18:3n3

hoặc 0.5-0.75% n-3 HUFA

0.5%  18:2n6 + 0.5%   18:3n3

  0.5 - 1% 18:2n6 hoặc 1% 20:4n-6

1%  18:2n6 + 1%  18:3n6

0.6- 1% HUFA

1%18:2n6 + 1% 8:3n3 hoặc 0.5% HUFA

2% 18:3n-6

1%  18:2n6 hoặc 1%  18:3n3

18:2n-6 và 18:3-3 (12:1) hoặc 20:4n-6 và 22:6n-3

2- 3%  HUFA

Một số tác giả khi nghiên cứu ảnh hưởng của thành phần lipid lên sức sinh sản và tỷ lệ nở của trứng tôm Peneus chinensis cho rằng có mối liên hệ chặt chẽ giữa acid béo, 20:5n-3 trong trứng và sức sinh sản, giữa 22:6n-3 và tỷ lệ nở, v́ vậy họ đề nghị bổ sung HUFA vào thức ăn cho tôm bố mẹ. Alava và ctv (1993) cũng cho biết thức ăn thiếu phospholipid hoặc HUFA đều làm chậm quá tŕnh phát triển buồng trứng của tôm P. japonicus. Ngoài ra, mối liên hệ rất chặt chẽ giữa 20:4n-6 và 20:5n-6 sự phát triển của buồng trứng cũng được t́m thấy ở một số loài tôm thuộc họ Penaedea ngoài tự nhiên.

Xu và ctv (1994) thí nghiệm sử dụng thức ăn có bổ sung các nguồn lipid khác nhau lên tôm P. chinensis, kết quả cho thấy sức sinh sản của loài tôm này gia tăng khi thức ăn được bổ sung dầu gan cá, trong khi dầu đậu nành th́ cho sức sinh sản thấp hơn.

·        Dấu hiệu thiếu acid béo thiết yếu của ĐVTS:

-         Giảm sinh trưởng

-         Tăng tỉ lệ chết

-         Giảm hiệu quả sử dụng thức ăn

-         Ṃn vây đuôi (nguyên nhân do Flexebacterium sp)

-         Thoái hóa gan (sưng to, tái màu)

-         Giảm sinh sản (tỉ lệ nở của trứng và tỉ lệ sống ấu trùng, cá bột thấp) 

 

7. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN THÀNH PHẦN ACID BÉO TRONG ĐỘNG VẬT THỦY SẢN

 

7.1 Độ mặn

 

           

Động vật thủy sản nước ngọt có chứa nhiều acid béo n-6 hơn ĐVTS biển. tỉ lệ n-6/n-3 là 0.37 ở cá nước ngọt và 0.16 ở cá biển. Tỉ lệ n6/n3 cũng khác nhau đối với loài cá di cư từ biển vào sông hay ngược lại. Tỉ lệ n-6/n-3 thay đổi từ 0.14 lên 0.3 trong ṿng 1 tháng di cư từ nước biển vào môi trường nước ngọt. Ngược lại ở  tỉ lệ này giảm từ 0.3 xuồng 0.1 khi cá di cư từ nước ngọt ra biển để sinh sản. Sự thay đổi này xảy ra ở cả lipid dự trữ cũng như lipid cấu trúc (phospholipid). Sự thay đổi này có thể do sự khác nhau về thành phần các acid béo trong thức ăn tự nhiên hoặc sự khác nhau này nhằm đáp ứng nhu cầu sinh lư của cá để thích nghi với điều kiện sống khác.

 

 

 

 

 

 

Bảng 5.5. Thành phần của các acid béo thay đổi khi cá di cư

Acid béo

Plecoglosus altivelis

Onchorhynchus masu

Biển                      nước ngọt

Nước ngọt                       biển

TG

PL

TG

PL

TG

PL

TG

PL

Bảo ḥa

1 nối đôi

n- 6

n- 3

n-6/n- 3

34,9

31,8

35,1

53,8

31,9

37,5

31,0

36,0

27,4

16,1

32,0

35,9

43,0

18,6

43,1

19,2

4,4

2,2

7,2

3,2

5,7

4,0

23

1,5

31,7

49,4

23,9

6,9

18,6

39,8

23,2

43,1

0,14

0,04

0,30

0,46

0,31

0,10

0,10

0,03

 

Tương tự, tôm nước ngọt, đại diện là tôm càng xanh cũng có tỉ lệ n-6 PUFA cao hơn n-3 trong tổng số lipid, trong khi đó, tôm biển có tỉ lệ n-3 PUFA cao hơn so với n-6 .

 

Bảng 5.6: Thành phần acid béo của tôm  nước ngọt và tôm biển (%lipid)

 

Acid béo

Tôm nước ngọt

Tôm biển

16:0

16:1n9

18:0

18:1n9

18:2n6

18:3n6 + 20:1n9

18:3n3

20:2n6

20:3n6 + 22:1n9

20:4n6

20:5n3

22:4n6

22:5n6

22:5n3

22:6n3

26,0

6,4

9,8

28,8

16,3

0,7

1,9

1,0

0,1

2,7

3,7

0,2

0,2

0,2

2,1

17,6

13,5

9,3

14,9

2,9

2,6

1,5

1,7

0,2

6,4

15,5

0,8

1,2

1,5

10,3

Tổng PUFA

Tổng n-6 PUFA

Tổng n-3 PUFA

28,3

20,4

7,9

41,8

13,0

28,8

 

7.2 Nhiệt độ

 

            

Nhiệt độ là một yếu tố môi trường ảnh hưởng quan trọng đến tỉ lệ các acid béo trong lipd của cá. Nhiều thí nghiệm cho thấy ảnh hưởng của nhiệt độ môi trường làm ảnh hưởng thành phần acid béo. Tôm cá  xứ lạnh thường chứa nhiều HUFA trong thành phần acid béo hơn tôm cá nhiệt đới, như vậy tỷ số n6/n3 giảm theo sự giảm nhiệt độ. Theo khuynh hướng trên tôm cá  xứ lạnh có nhu cầu acid béo họ n-3 cao hơn tôm cá xứ nhiệt đới và ngược lại cá xứ nhiệt đới có nhu cầu cao hơn về acid béo n6. Như cá hồi, một loài cá xứ lạnh ngay trong nước ngọt cũng có khuynh hướng gia tăng hàm lượng HUFA  của những acid béo nhánh dài C20 và C22 và tỉ lệ n6/n3 thấp hơn những loài cá nhiệt đới. Do đó khi thay đổi nhiệt độ môi trường nuôi cần lưu ư thay đổi mức độ và tỉ lệ acid béo thiết yếu để ĐVTScó thể sinh trưởng và phát triển trong điều kiện sống mới

 

7.3 Thức ăn

 

 

Tỉ lệ acid béo n6/n3 của acid béo cá thay đổi rất lớn theo tỉ lệ n6/n3 trong thức ăn. Khi cho cá ăn thức ăn chứa nhiều n6 như mỡ ḅ, dầu thực vật, cá có khuynh hướng thay đổi tỉ lệ n6/n3 tích lũy trong cơ thể bằng cách tăng tỉ lệ n6/n3 lên và ngược lại khi cho cá ăn thức ăn chứa nhiều n3.

 

Tôm chân trắng Penaeus vannamei cũng cho biết, khi sử dụng thức ăn được bổ sung nhiều HUFA th́ tôm giống cũng tích luỹ một hàm lượng HUFA cao hơn so với các nghiệm thức khác. Kết quả này cũng được ghi nhận trên tôm sú (Piedad-Pascual, 1986), ấu trùng và hậu ấu trùng tôm càng xanh (Alam, 1995). Hàm lượng n-3 PUFA trong lipid tôm biển là 41,5% trong khi tôm nước ngọt chỉ là 20,4%. Trái lại n-6 PUFA ở tôm nước ngọt (20,4%) cao hơn tôm biển (13%).  Sự khác nhau này đă được một vài tác giả nghiên cứu và cho biết có thể là do thức ăn của nhóm tôm nước ngọt chủ yếu là nhóm sống ở khu vực nước ngọt, đặc biệt là nhóm thực vật, mà thành phần lipid của thực vật chủ yếu là nhóm n-6 PUFA

 

8.  PHOSPHOLIPID VÀ NHU CẦU PHOSPHOLIPID

 

Phospholipid là ester của các acid béo với phosphatidic acid. Phospholipid là thành phần chính cấu tạo nên các màng cơ bản sinh học trong đó hai đầu ưa nước sắp xếp quay mặt ra bên ngoài.

 

        Phospholipid được phân chia thành hai nhóm tùy theo cấu trúc có chứa gốc glycerol hay gốc sphingosyl. Glycerolphospholipid gồm phosphatidyl choline (PA), phosphatidil ethanolamine (PE), phosphatidyl inositol (PI), phosphatidyl serine (PS), phosphatidyl glycerol (PG). Sphingosyl phổ biến nhất là sphigomyalin.

 

Phospholipid có một vai tṛ rất quan trọng trong dinh dưỡng v́ nó tham gia vào cấu trúc của tất cả các màng cơ bản và gữi vai tṛ quan trọng trong sự vận chuyển và hấp thụ lipid và tham gia vào các quá tŕnh biến dưỡng trung gian trong cơ thể sinh vật. Phospholipid hay lipid phân cực có vai tṛ quan trọng trong dinh dưỡng cho động vật thủy sản, đặc biệt là giáp xác. Nó tham gia vào cấu trúc của tất cả các màng tế bào cơ bản, giữ vai tṛ quan trọng trong sự vận chuyển và hấp thu lipid, tham gia vào quá tŕnh biến dưỡng trung gian trong cơ thể sinh vật. Thường đối với thủy sản, nguồn cung cấp phospholipid chủ yếu là lecithin từ dầu đậu nành. Tất cả các loài giáp xác đều cần lecithin trong suốt quá tŕnh phát triển đặc biệt là giai đoạn ấu trùng (Harrison, 1990).

Ấu trùng tôm biển sẽ chết 100% ở giai đoạn mysis nếu cho ăn thức ăn không có lecithin (Kazanawa và ctv, 1985). Teshima và Kavazawa (1986) đă nghiên cứu ảnh hưởng hàm lượng lecithin lên sinh trưởng của tôm he Nhật bản, kết quả cho thấy tốc độ tăng trưởng và hiệu quả sử dụng thức ăn sẽ giảm khi thức được bổ sung lecithin dưới 3%. Đối với tôm hùm triệu chứng của việc thiếu hụt phospgholipid là tôm không có khả năng lột xác hoàn toàn ra khỏi vỏ cũ được gọi là bệnh "molt death = bẩy lột xác”, bệnh này kéo dài đến 90 ngày tuổi làm giảm tỷ lệ sống của ấu trùng (Coklin và ctv, 1980). Lecithin trích từ đậu nành và phosphostidylcholine (PC) đă được chứng minh là cần thiết cho sự sinh trưởng của tôm P. penicillatus (Jenn, 1989), tôm P. monodon (Piedad-Pascula, 1985) và P. chinensis (Kazanawa, 1993). Piedad-Pascula (1985) t́m thấy rằng tăng trọng của tôm sú giống sẽ gia tăng khi thức ăn bổ sung 2% lecithin kết hợp với dầu cá Tuyết.

 

Bảng 5.7: Các kết quả nghiên cứu về nhu cầu lecithin cho giáp xác

     Loại tôm

Nguồn phospholipid

Mức tối ưu (%)

Tác giả

Tôm hùm (giống)

Lecithin đậu nành

(Hỗn hợp dầu đậu nành, PC, PE và một số loại khác

7.5

Conklin và ctv (1980)

He Nhật bản

(P. japonicus)

Lecithin đậu nành (hỗn hợp PC (24%), PE (30%) và một số thứ khác)

3

Teshima và ctv (1983)

Tôm sú

(P. monodon)

Lecithin đậu nành

2%

Piedad-Pascula, 1985

P. stylirostris

Lecithin đậu nành

1.5

Bray và ctv (1990)

* PC: phosphostidylcholine, PE: Phosphatidylethanolamine.

9. CHOLESTEROL VÀ NHU CẦU CHOLESTEROL

 

Sterol là một rượu có ṿng chứa bộ khung 1,2 - cyclopentanophenthrene chứa 27 - 30 nguyên tử carbon với gốc OH ở vị trí C3 và một nhánh ngang chứa tối thiểu bảy carbon ở vị trí C17. Trong sterol, cholesterol là một thành phần chính cấu tạo màng tế bào và là tiền chất của nhiều hormon sinh dục như progesterone, testosterone... và các muối mật.

Giáp xác phải lấy sterol từ thức ăn, mà duy nhất là từ lipid của thức ăn (Kanazawa và ctv, 1971; Castell và ctv, 1975). Một vài dạng của sterol là Cholesterol, phytosterol, isofucosterol, stigmasterol... Trong đó cholesterol được xem như là loại có ảnh hưởng lớn nhất đến sinh trưởng và tỷ lệ sống của nhiều loại giáp xác (Teshima và Kanazawa, 1983).  Một số loài giáp xác như cua và tôm hùm sẽ chuyển hoá cholesterol ngoại sinh thành cholesteryl esters, corticoids, kích thích tố sinh dục, và kích thích tố lột xác (Kanazawa, 1985; Teshima và Kanazawa, 1971). Thí nghiệm của Teshima và ctv (1982) trên tôm P. japonicus cho thấy, khi bổ sung 1% cholesterol vào thức ăn cho loài tôm này đă làm gia tăng tỷ lệ sống cũng như tốc độ tăng trưởng. Nhu cầu cholesterol của tôm sú P. monodon được đề nghị bởi Wu (1986) là 0,5%. 

@ Một vài lưu ư khi thức ăn bị oxy hóa lipid (ôi dầu)

 

Một điểm cần lưu ư khi sử dụng lipid trong thức ăn cho động vật thủy sản là do nguồn lipid cung cấp trong thức ăn của yếu là các loại lipid có hàm lượng PUFA cao nên dễ dàng bị oxy hóa trong không khí.  Chất béo bị oxy hóa gây ra một số ảnh hưởng xấu lên ĐVTS

 

-         Lipid bị oxy hóa giảm lượng acid béo cần thiết cho ĐVTS

-         Gây độc cho ĐVTS, nguyên nhân là quá tŕnh oxy hóa chất béo tạo các sản phẩm như andehyt, ketons ...đây là những chất gây độc cho ĐVTS.

-         Quá tŕnh oxy hóa lipid sẽ làm cho thức ăn c̣ mùi hôi, vị  khó ăn nên ảnh hưởng đến sự bắt mồi, hiệu quả sử dụng thức ăn.

-         Sản phẩm ĐVTS khi sử dụng thức ăn bị oxy hóa  có mùi hôi khó chịu, mỡ tích lũy sẽ bị vàng hay nâu sậm  

-         Một số dưỡng chất cần thiết bị phân hủy ( Vitamin A, B6, C, D, E và carotenoid)

-         Giá trị dinh dưỡng của thức ăn giảm

 

@ Một số dấu hiệu khi ĐVTS sử dụng thức ăn có chứa chất béo bị oxy hóa

 

-         Xuất huyết, lượng hồng cầu giảm và cá có triệu chứng thiếu máu.

-         Trương bụng và phồng gan

-         Giảm ăn và FCR tăng cao

-         Sinh trưởng chậm

-         Ṃn vây và teo cơ

-         Tăng tỉ lệ chết

 

 

 

 

 

 

 

Để tránh hiện tượng oxy hóa chất béo nên sử dụng chất kháng oxy hóa. Các chất kháng oxy hóa như vitamin E, phenols, quinones, tocopherols và gallic acid, ascorbic acid, citric acid. Tuy nhiên trong thực tế sản xuất người ta thường dùng các chất kháng oxy hóa nhân tạo như:

·        BHT (Butylated Hydroxy Toluen):           200ppm

·        BHA (Butylated Hydroxy Anisole):         200ppm

·        Ethoxyquin                                                150 ppm

 

                 Ngoài ra thức ăn cần được bảo quản nơi khô ráo, thoáng mát  để tránh hiện tượng oxy hóa.            

 

 
TOPPREVIOUSINDEXNEXTHOME