VĂN
HỌC VIỆT NAM 1955 -1975
VĂN
HỌC VIỆT NAM 1955 -1975
So
với thơ, truyện và kí có vị trí không kém
phần quan trọng. Đội ngũ nhà văn viết
truyện và kí đông đảo, nhiệt t́nh, gắn bó
với cuộc sống, luôn có sự t́m ṭi thể
nghiệm trong sáng tác để tạo nên sự phát
triển mạnh mẽ, ngày một phong phú hơn cho
thể loại này. Các nhà văn lớp trước tiêu
biểu là: Nguyễn Tuân, Nguyên Hồng, Nguyễn Huy Tưởng,
Tô Hoài, Nguyễn Công Hoan, Bùi Hiển..., vẫn tiếp
tục phát huy được tài năng và bản lĩnh
nghệ thuật của ḿnh trước hiện thực
cuộc đời mới. Lớp nhà văn kế cận
là : Nguyễn Đ́nh Thi, Nguyễn Khải, Nguyễn Văn
Bổng, Vơ Huy Tâm..., ngày càng khẳng định
được vị trí của ḿnh trên văn đàn.
Đặc biệt là sự xuất hiện của
nhiều nhà văn trẻ như : Vũ Tú Nam, Nguyên
Ngọc, Anh Đức , Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Thi,
Nguyễn Sáng, Vũ Hạnh, Phan Tứ, Vũ Thị Thường,
Đào Vũ, Chu Văn, Hữu Mai, Xuân Cang, Lê Văn
Thảo, Dương Thị Xuân Quư, Đỗ Chu, Thái Bá
Lợi, Nhật Tuấn,… Họ trưởng thành nhanh chóng
từ trong cuộc sống xây dựng chủ nghĩa xă
hội và kháng chiến chống Mĩ. Họ trở thành
lực lượng sáng tác quan trọng làm nên diện
mạo của văn xuôi thời ḱ này.
T́m
hiểu về đặc điểm phong cách của các nhà
văn, Phan Cự Đệ cho rằng:“Chúng ta có cái
đẹp trong sáng, nhẹ nhơm, thanh thoát, đầy t́nh
cảm yêu thương của Nguyễn Đ́nh Thi, cái xù
x́ gân guốc… với chất say đầy hưng
phấn lăng mạn của Nguyên Hồng, cái hóm hỉnh thông
minh của một năng khiếu quan sát tinh tế kết
hợp với tâm hồn thơ mơ mộng của Tô Hoài,
cái đôn hậu ấm áp đượm vẻ huy hoàng
tráng lệ của Nguyễn Huy tưởng, cái tỉnh táo,
sắc sảo mang tính chất phát hiện của
Nguyễn Khải, cái khỏe mạnh gân guốc có tính
chiến đấu của Chu Văn, cái dân gian mà hiện
đại của Nguyễn Thi, cái hiện đại mà
cổ kính của Nguyễn Tuân, cái hùng tráng mà thi vị
của Nguyễn Trung Thành, cái trữ t́nh trong sáng
thiết tha của Anh Đức, cái trí tuệ
hài ḥa và cân đối của Phan Tứ… Bùi
Hiển vẫn giữ được cái đậm đà
trung hậu của xứ Nghệ, Vũ Thị Thường
hướng về một vả đẹp nông thôn
thuần phác, đôn hậu, Nguyễn Kiên đầm
ấm yêu thương với những t́nh cảm, lí tưởng
trong sáng, Nguyễn Sáng thích những xung đột giàu
kịch tính, nhân vật có chất tạo h́nh, góc
cạnh và dữ dội, Đỗ Chu thu hút chúng ta
bằng những cảm xúc tươi mới, những
kỉ niệm ngọt ngào, ấm cúng…”(Nhà
văn Việt Nam hiện đại, T1).
Nh́n
chung, đội ngũ nhà văn ngày một lớn
mạnh, đông đảo, khẳng định được
vị trí của ḿnh trong sự nghiệp cách mạng
của dân tộc, khẳng định được phong
cách sáng tác. Có thể xem, mỗi nhà văn như là
một bông hoa có hương sắc riêng, góp phần
tạo nên một vườn hoa đầy hương
sắc, đa dạng và phong phú trong vườn hoa văn
xuôi Việt Nam hiện đại.
* Đề tài về
cuộc sống trước Cách mạng tháng Tám :
Nổi bật là
bộ tiểu thuyết Cửa
biển (4 tập) của Nguyên Hồng, Tranh
tối tranh sáng, Hỗn
canh hỗn cư, Đống
rác cũ, tập I của Nguyễn Công Hoan, Vỡ
bờ (tập I & II) của Nguyễn Đ́nh Thi,...
Ở những tác phẩm này, với khả năng khám phá,
bao quát và thể hiện hiện thực rộng lớn, cùng
với tầm nhận thức và thể hiện mới, các
nhà văn đă giúp cho người đọc càng
hiểu hơn về cảnh sống đau thương
của cha ông trong quá khứ, về bản chất phi lí,
bạo tàn, bịp bợm của chế độ thực
dân phong kiến. Mặt khác, các nhà văn đă ngợi
ca sự anh dũng quật cường của dân tộc
ta trong hoàn cảnh đó.
Ngoài ra c̣n có tập kí Nhân
dân ta rất anh hùng do
một số cán bộ lănh đạo cách mạng như
Vơ Nguyên Giáp, Lê Văn Lương, Phạm Hùng, Hoàng
Quốc Việt … ,kể lại những hoạt động
cứu nước trước cách mạng, góp phần khơi
gợi tinh thần yêu nước và khẳng định
vai tṛ, sức mạnh của quần chúng nhân dân trong
việc đấu tranh dành Độc lập, Tự do cho
dân tộc.
*
Đề tài về cuộc kháng chiến chống Pháp
:
Sau
khi cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi, các
nhà văn có khoảng cách về thời gian và tầm
nhận thức mới để tiếp tục sáng
tạo những ǵ mà trong hoàn cảnh trước đó
họ đă ấp ủ, thai nghén nhưng chưa có điều
kiện thực hiện. Bởi thế, chỉ trong
khoảng một thời gian ngắn sau kháng chiến
một loạt tác phẩm viết về đời
sống kháng chiến đă ra đời, tiêu biểu
phải kể đến: Đất nước đứng lên của Nguyên
Ngọc, Trước giờ nổ súng của Lê Khâm, Một
truyện chép ở bệnh viện của Bùi Đức
Aùi, Sống
măi với thủ đô của
Nguyễn Huy Tưởng, Cao điểm cuối cùng của Hữu Mai, Phá
vây của Phù Thăng. Các nhân vật trong truyện tuy
xuất thân và có hoàn cảnh sống khác nhau nhưng
đều ngời sáng lên những phẩm chất cao
đẹp. Họ luôn biết vượt qua bao gian truân
thử thách trong cuộc sống để góp sức ḿnh
làm nên sự thắng lợi cho cuộc kháng chiến. Không
ít những nhân vật ở các tác phẩm nói trên là nguyên
mẫu từ cuộc sống chiến đấu của dân
tộc thông qua sự sáng tạo của nhà văn đă
trở thành điển h́nh nghệ thuật có sức tác
động lớn và sâu bền đối với t́nh
cảm, nhận thức của người đọc như
: anh Núp trong Đất nước đứng lên, chị Tư
Hậu trong Một truyện chép ở bệnh viện...
* Đề tài
về cuộc sống xây dựng chủ nghĩa xă
hội :
Trên cơ
sở sống gắn bó và nhận thức sâu sắc
về cuộc sống, các nhà văn nhanh chóng chiếm lĩnh
hiện thực đời sống xây dựng chủ nghĩa
xă hội để khám phá và sáng tạo thành công
nhiều tác phẩm. Nhiều vấn đề bức
thiết được các nhà văn nghiền ngẫm và
thể hiện như : cái cũ và cái mới; cá nhân và
tập thể; vấn đề hợp tác hóa; quan
niệm về hạnh phúc; tầm nh́n của người
cán bộ; sự đổi thay của cuộc sống; ư
nghĩa của cuộc sống làm ăn tập thể;
vẻ đẹp của những con người lao động
b́nh thường trong xă hội; ... Tiêu biểu cho đề
tài trên là các tác phẩm: Hăy
đi xa hơn nữa, Xung
đột của Nguyễn Khải,
Cái sân gạch của Đào Vũ,
Bốn năm sau
của Nguyễn Huy Tưởng, Băo
biển của Chu Văn, Những
người thợ mỏ của Vơ Huy Tâm, Cái
hom giỏ, Gánh vác của Vũ Thị Thường, Vụ
mùa chưa gặt của Nguyễn Kiên, Sông
Đà của Nguyễn Tuân, …
Ở
từng mức độ, các tác phẩm trên không chỉ
phản ảnh chân thật sinh động cuộc sống,
mà c̣n góp phần lí giải những vấn đề
đặt ra trong cuộc sống ở buổi đầu
xây dựng chủ nghĩa xă hội ở miền Bắc.
Có nhiều vấn đề trong cuộc sống mà nhà văn
nh́n nhận, đánh giá ở vào thời điểm đó
nhưng đối với cuộc sống hôm nay vẫn c̣n
mang ư nghĩa thời sự, vẫn là điều cần
thiết phải suy ngẫm thêm. Với thành công trên, các
nhà văn đă khẳng định được vị
trí, sự trưởng thành và đóng góp của ḿnh
trong công cuộc xây dựng cuộc đời mới.
*
Đề tài về cuộc kháng chiến chống Mĩ
:
Ngay
từ thời ḱ đầu của cuộc kháng chiến
chống Mĩ, các nhà văn đă nhanh chóng đến
với những nơi ác liệt và nóng bỏng nhất. Nơi
nào có tiếng súng, tiếng máy bay gầm rú, tiếng bom,
tiếng đại bác, nơi đó nhà văn có mặt.
Có nhiều nhà văn vừa cầm súng vừa cầm bút
vượt Trường Sơn đến chiến trường
để t́m được nguồn cảm hứng sáng
tạo mới và khám phá được biết bao vẻ
đẹp, bao ḱ tích anh hùng đang nảy nở hàng ngày,
hàng giờ trong đời sống chiến đấu
của dân tộc. Bởi thế, chỉ trong một
thời gian ngắn, trong hoàn cảnh sáng tác có nhiều khó
khăn nhưng truyện và kí viết về cuộc kháng
chiến chống Mĩ vẫn đạt được
nhiều thành công đáng tự hào. Những tác phẩm
đạt giải trong các đợt thi sáng tác của báo
Văn nghệ tổ
chức vào các năm 1965, 1967 - 1968, 1970 - 1971, 1974 - 1975 và
đặc biệt là các tác phẩm đă được
Hội đồng Văn học nghệ thuật của
Ủy ban Trung ương Mặt trận dân tộc giải
phóng miền Nam Việt Nam trao tặng Giải
thưởng văn học nghệ thuật Nguyễn Đ́nh
Chiểu là thành tựu nổi bật, là dấu son
trong tiến tŕnh của văn xuôi Việt Nam hiện
đại. Tiêu biểu nhất cho sự thành công trên là
các tác phẩm: Ḥn đất,
Bức thư Cà Mau của Anh Đức, Mẫn
và tôi, Gia đ́nh má Bảy, Về làng của Phan
Tứ, Đất Quảng, Rừng
xà nu của
Nguyễn Trung Thành, Nguời
mẹ cầm súng của Nguyễn Thi, Rừng
U Minh của Trần Hiếu Minh, Chiếc
lược ngà, Bông cẩm thạch của Nguyễn
Quang Sáng, Sống như anh
của Trần Đ́nh Vân, Bất
khuất của Nguyễn Đức Thuận, Hà
Nội ta đánh Mĩ giỏi
của Nguyễn Tuân, Họ sống và chiến đấu, Chiến sĩ
của Nguyễn Khải Vùng trời của
Hữu Mai, Thôn ven đường
của Xuân Thiều, Cửa
sông, Dấu chân người lính của
Nguyễn Minh Châu, Những ngày nổi giận của Chế Lan Viên
…
Các tác phẩm nói trên đi vào khám phá, thể
hiện từng khía cạnh khác nhau trong đời
sống chiến tranh và đều có nét đẹp riêng
để góp phần làm nên vẻ đẹp chung cho
truyện kí viết về đề tài chống Mĩ. Dù
không tránh khỏi hạn chế ở mặt này hay
mặt khác nhưng đó chính là sự minh chứng sinh
động, hùng hồn về khí thế hào hùng và
những phẩm chất cao đẹp cũng như
sức sống mănh liệt của dân tộc Việt Nam
ở những năm tháng đó.
Nét nổi
bật, nét mới của truyện và kí thời ḱ này
đó là vừa nâng cao khả năng bao quát hiện
thực, vừa chú ư đào sâu những vấn đề
nằm trong hiện thực đó, vừa miêu tả,
vừa phân tích và lí giải nên tác phẩm có được
sức khái quát chính xác và sâu sắc hơn.
Nhiều tác phẩm có quy mô phản ánh rộng
lớn và sâu sắc được ra đời như: Cửa
biển của Nguyên Hồng, Vỡ
bờ của Nguyễn
Đ́nh Thi, Vùng
trời của Hữu Mai, Băo
biển, Đất mặn của Chu Văn,
Chiến sĩ của
Nguyễn Khải, Dấu chân người
lính của Nguyễn
Minh Châu,… Đặc biệt, nhiều tác phẩm ra đời
một cách kịp thời, đảm bảo tính thời
sự. Điều đó chứng tỏ các nhà văn có
sự cố gắng lớn để nhanh chóng chiếm lĩnh
được hiện thực cuộc sống.
Trong quá tŕnh khám
phá, sáng tạo, các nhà văn đă chú ư khai thác và
thể hiện những khía cạnh độc đáo
của cuộc sống vừa sản xuất, vừa
chiến đấu, sự gắn bó giữa tiền
tuyến và hậu phương, cũng như các mối
quan hệ trong đời sống gia đinh, xă hội …
Ở từng phương diện và mức độ
khác nhau, các tác phẩm đă thể hiện được
một cách thành công sự sàng lọc con người trong
cuộc sống xây dựng và chiến đấu, mà
nhất là thể hiện được sự kế
tiếp của hai thế hệ trong cuộc chiến đấu
v́ Độc lập, Tự do của dân tộc, tiêu
biểu là: Ḥn đất
của Anh Đức, Mẫn và
tôi của Phan Tứ, Dấu
chân người lính của Nguyễn Minh Châu …
Vấn
đề xây dựng nhân vật của truyện và kí
ở thời ḱ này cũng có bước phát triển
đáng chú ư. Nhà văn chú trọng hơn việc đi sâu
vào khai thác nội tâm, đời sống tinh thần
của nhân vật. Loại nhân vật được
mở rộng đáp ứng kịp thời nhu cầu
thẩm mĩ của độc giả. Một số nhân
vật được xây dựng từ nguyên mẫu trong
đời sống nên càng có tác dụng giáo dục sâu
sắc.
(Phần
này sinh viên đọc các tài liệu tham khảo theo
sự hướng dẫn của giáo viên).
Cần lưu ư các
điểm sau :
- Vị trí của kịch nói so với các thể
loại khác cùng thời ḱ.
-
Kịch chuyển thể từ kí và tiểu thuyết .
-
Kịch lịch sử góp
phần khẳng định niềm tin, niềm tự hào,
ư chí của ông cha trong lịch sử đấu tranh
dựng nước và giữ nước