_______________________________________________________________________________________________
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ CHƯƠNG TRÌNH HÀNH ÐỘNG
VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
PHƯƠNG
HƯỚNG VÀ CHƯƠNG TRÌNH HÀNH ÐỘNG
VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG Ở QUI MÔ TOÀN CẦU.
PHƯƠNG
HƯỚNG VÀ CHƯƠNG TRÌNH HÀNH ÐỘNG VỀ
BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG Ở VIỆT NAM.
Ðã đến lúc loài người phải ý thức được mối quan hệ
gắn loài người với sinh quyển như là một thành viên của hệ
sinh thái khổng lồ. Một
nền đạo lý cho môi trường là một đòi hỏi cấp thiết nhất.
Ổn định dân số ở mức độ giới hạn của hành tinh cùng
sự bảo vệ những nguồn tài nguyên là những điều kiện tiên
quyết cho việc phát triển bền vững.
Việc phát triển là sự sửa đổi các điều kiện của sinh
quyển cùng các nguồn tài nguyên để thỏa mãn nhu cầu và cải
thiện chất lượng cuộc sống con người.
Việc bảo vệ nhằm quản lý và sử dụng các nguồn tài
nguyên sao cho thế hệ hiện nay có được những lợi ích về vật
chất và tinh thần, đồng thời bảo đảm cho nó tồn tại lâu dài,
cho những nhu cầu và nguyện vọng của thế hệ tương lai.
Tóm lại việc phát triển và bảo vệ là để phục vụ loài
người. Phát triển là sử
dụng sinh quyển, để đạt mục đích đó thì bảo vệ cho phép
con người sử dụng sinh quyển được lâu bền.
Từ đó việc tìm hiểu tình trạng môi trường thế giới và
của Việt Nam là cần thiết cho việc đề ra các chiến lược
bảo vệ tài nguyên và môi trường.
Khủng hoảng môi trường trầm trọng hơn.
Trong 20 năm gần đây, sự phá hoại sinh thái gia tăng,
hố ngăn cách giàu nghèo càng rộng thêm và trẻ em trở thành
những nạn nhân đầu tiên của sự quản lý kém cỏi về môi trường
.
Theo một báo cáo quan trọng hàng đầu của chương trình LHQ
về môi trường (PNUE), sự ô nhiễm không khí và nước xuyên biên
giới tiếp tục gia tăng, theo đó là sự phá rừng, mở rộng
diện tích sa mạc, sự giảm sức sản xuất đất nông nghiệp,
tỉ lệ gia tăng dân số quá đáng trong lịch sử nhân loại.
Sự tàn phá đã đạt đến tầm vóc hành tinh và bao gồm
sự giảm tầng ozone, sự thay đổi khí hậu và sự nóng lên toàn
cầu, sự gia tăng chất thải độc hại và sự tuyệt chủng hàng
loạt của sinh vật. Báo cáo
về tình trạng môi trường 1972-1992 mô tả những yếu tố chủ
yếu đã ảnh hưởng lên môi trường và phát triển trong suốt 2
thập kỷ qua. Sau đây là
một số vấn đề đáng kể.
1.
Dân số hiện nay là 5,4 tỉ người, người ta dự đoán sẽ
có thêm một tỉ người nữa trước năm 2000, đó là sự gia tăng
nhanh nhất trong lịch sử. 90%
các ca đẻ ở trong những nước đang phát triển nơi mà đã có
1,1 tỉ đang sống trong nghèo khó. Mỗi
ngày có 35 ngàn trẻ em dưới 5 tuổi chết vì bệnh tật lẽ ra có
thể tránh được nếu có biện pháp phòng ngừa.
2.
Trước năm 2000, sự giảm của tầng ozone có thể từ 5-10%
ở những vĩ độ trung bình vào mùa hè.
Người ta dự kiến là sự mất 10% của tầng ozone sẽ gây
ra một sự gia tăng ung thư da đến mức 26%.
Sự giảm ozone có thể làm gia tăng các trường hợp đui mù
do đục thủy tinh thể, làm suy giảm hệ thống miễn nhiễm ở người
và giảm sự sản xuất thực vật.
3.
Khoa học khẳng định rằng sự thay đổi khí hậu đã xảy
ra rồi. Những ảnh hưởng có
thể là: sự giảm sút nghiêm trọng sản lượng nông nghiệp ở
một số vùng, một sự gia tăng khô hạn, đặc biệt trong những
quốc gia khô ráo và sự gia tăng mực biển đe dọa các vùng (bờ
biển) thấp.
4.
Những xứ đang phát triển chiếm 77% dân số thế giới nhưng
chỉ có 15% thu nhập toàn cầu.
5.
Gần 900 triệu người sống trong vùng đô thị là nạn nhân
của SO2. Nhiều thành phố Châu
Âu, trong đó có Paris, thường có mức độ ô nhiễm vượt quá
giới hạn chấp nhận được đối với SO2 và sự thải các hạt
(bụi) lơ lửng trong không khí.
6.
Một phần tư dân Châu Âu uống nước chứa lượng Nitrat cao
hơn mức tối thiểu là 25 mg/l, tiêu chuẩn của liên minh Châu Âu.
7.
Hằng năm, thế giới săn bắt cá (kể cả động vật thủy
sinh khác) từ 31 triệu tấn năm 1970 lên đến con số 91 triệu
tấn năm 1989. Sự khai thác
ở tầm thế giới không được vượt quá trị số 100 triệu
tấn/năm nếu không muốn phức tạp hóa việc phục hồi.
8.
Có khoảng từ 200.000 đến 300.000 tấn chất thải nguy hiểm
được mang từ Liên Hiệp châu Âu sang các nước trung Âu và Ðông
Âu hàng năm.
9.
Ước lượng 75% vùng châu Âu bị thiệt hại do mức độ quá
cao của Sulfure và 60% bị hại do mức độ quá lớn của Nitrogen .
10.
Một phần tư của đa
dạng sinh học của hành tinh có thể bị tuyệt diệt trong vòng
20-30 năm tới do hoạt động của con người.
Có khoảng từ 100-200 loài biến mất hàng ngày.
11.
Sự xói mòn quá đáng làm biến mất hàng năm 25 tỉ tấn đất
canh tác trên thế giới.
12.
Số người bị đói kinh niên trên thế giới từ 460 triệu,
năm 1970 gia tăng đến 550 triệu người năm 1990.
Chúng ta có thể thấy rằng mặc dù khoa học về môi trường
có một số thành tựu lớn, nhưng tình trạng môi trường xấu đi
so với 20 năm trước.
II.
TÌNH TRẠNG MÔI TRƯỜNG CỦA VIỆT NAM
Theo Bộ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ và MÔI TRƯỜNG, 1994 thì môi trường
của nước ta bị suy thoái và ô nhiễm trầm trọng, thể hiện qua
các mặt sau đây.
Có đến hơn 13 triệu đất suy thoái, đất
trống đồi núi trọc. Ðộ
ẩm cao, mưa nhiều, bão lớn nên các quá trình suy thoái diễn ra
nhanh chóng, nên khai thác đất không hợp lý, nhất là vùng đất
dốc không có rừng che phủ. Các
chất dinh dưỡng bị rữa trôi có thể đến 150-170 tấn/ha/năm ở
đất dốc 20-220. Ngoài ra hàm
lượng khoáng vi lượng rất ít, pH giảm mạnh, lớp mặn bị kết
vón, đá ong hóa dẫn tới mất khả năng canh tác.
Ngoài việc đất mất canh tác, hay giảm độ phì nhiêu của
đất, thì việc sử dụng không hợp lý đất và nước trên các lưu
vực sẽ gây hiện tượng bồi lấp dòng sông, lòng hồ, cửa
biển.
Ở miền Trung, gió đẩy các cồn cát duyên hải vào đất
liền gây suy thoái đất trầm trọng. Ở đồng bằng Bắc Bộ và Nam Bộ, hàng trăm ngàn
ha đất màu mở đã bị nhiễm mặn và nhiễm phèn.
Ðất còn bị xói lở các vùng dân cư ven sông, ven biển.
Ngoài ra đất còn bị suy thoái hoặc ô nhiễm do khai thác nông
nghiệp qúa đáng, không bù đắp đủ số chất khoáng lấy đi qua
nông sản. Việc dùng phân tươi để bón ruộng hay việc dùng
các chất độc hại làm ô nhiễm đất.
Rừng nước ta
bị giảm sút nghiêm trọng về số lượng cũng như chất lượng.
Từ hơn 14 triệu ha (44% diện tích) năm 1945, hiện nay chỉ còn
khoảng 20-28% diện tích đất còn rừng.
Trong đó rừng giàu, tốt chỉ chiếm dưới 10%, rừng trung bình
23%, còn lại là rừng nghèo và mới phục hồi.
Rừng còn tiếp tục bị suy thoái nếu không có biện pháp
hữu hiệu thì trong vài thập kỷ tới nước ta sẽ không còn
rừng.
Vào mùa khô, nhiều vùng bị thiếu nước trầm trọng (Ðồng
Văn, Lai Châu...) Hạn hán kéo dài trong năm 1993 và 1994 tại nhiều
tỉnh Trung Bộ, đặc biệt là Quảng Trị gây thiệt hại nghiêm
trọng. Ngược lại mùa mưa,
xuất hiện nhiều cơn lũ đặc biệt lớn, lũ các dòng sông lên
cao kéo dài nhiều ngày gây úng ngập, làm thiệt hại nghiêm trọng
đến người và tài sản.
Ô nhiễm nước mặt ngày càng phát triển do chất thải công
nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận tải thủy bộ, khu dân cư và
sự rửa trôi trên các bề mặt sông suối.
Nước ngầm ngày càng sử dụng nhiều.
Nhưng do không quản lý tốt, sử dụng quá mức nên suy thoái
về lượng và chất. Từ đó
nước mặn xâm nhập nhiều nơi, cùng lớp nước thải sinh hoạt,
công nghiệp, gây lún đất, nước ngầm không đủ hay không còn
sử dụng được.
Môi trường không khí ở các đô thị, khu công nghiệp và các
vùng sản xuất bị suy thoái
ảnh hưởng đến sức khỏe người dân.
ONKK là do các hóa chất độc trong sản xuất công nghiệp (chì,
benzen, clor...), trong nông nghiệp (nông dược) và sinh hoạt (chật
chội, đông đúc, nhà ổ chuột).
5.
Suy thoái và ô nhiễm môi trường biển
Việt Nam có 3260 km bờ biển và trên 3000 đảo với các vùng
đặc quyền kinh tế trên 1 triệu km2.
Tỷ lệ ở các thành phố lớn ven biển chiếm đến 53% dân
số cả nước. Biển Ðông có
nhiều cá nhưng có nhiều nguy cơ bị nhiễm bẩn do các luồng tàu
đi và tại các cảng, nên ô nhiễm Hydrocacbon ở đây là khá cao.
Các vùng ngập mặn, đầm phá và rạng san hô bị khai thác
quá đáng và sử dụng những phương tiện không hợp pháp (mìn,
thuốc độc, lưới diệt chủng, phá rừng nuôi tôm...)
Tài nguyên sinh học của nước ta rất phong phú.
Ðã thống kê được 12.000 loài thực vật, trong nhiều loài
cho gỗ quí, làm dược liệu và các mục đích khác.
Ðộng vật gồm 273 loài thú, 774 loài chim, 180 loài bò sát,
80 loài lưỡng thê, 475 loài cá nước ngọt, 1650 loài cá biển và
hàng ngàn loài động vật không xương sống.
Sự tàn phá rừng, săn bắt quá mức, đánh cá bằng mìn...
phá hủy và thu hẹp môi trường sống làm giảm số lượng
loài, gây tuyệt chủng hoặc nguy cơ tuyệt chủng một số loài.
Việc bán thịt thú rừng, xuất lậu thú, chim qua biên
giới... góp phần làm suy thoái
tài nguyên sinh vật nước ta.
7. Suy thoái và ô nhiễm môi trường đô thị
Nước ta có khoảng 500 đô thị lớn nhỏ (1992). Dân đô thị tăng nhanh làm tăng lượng chất thải
(rác, nước thải, khí thải) làm giảm chất lượng cuộc sống và
sức khỏe con người.
Diện tích đất trồng chia đầu người ngày càng giảm do dân
số tăng nhanh. Thâm canh dất
quá đáng không đúng kỹ thuật, phá rừng để lấy đất canh tác
cây lương thực làm đất bị suy thoái.
Nhà ở chưa bảo đảm cho cuộc sống, thiếu vệ sinh, thiếu
diện tích... nước uống
sạch cho vùng nông thôn nhất là vùng rừng núi là vấn đề cấp
thiết.
Vấn đề nhiễm độc do hóa chất trong nông nghiệp cho rau,
quả, cá tôm... là vấn đề
y tế công cộng không riêng cho dân nông thôn mà cho cả dân đô
thị. Nhiễm độc vô ý hay
cố ý (tự tử do thuốc sát trùng) gây nhiều hậu quả xấu cho
gia đình và xã hội. Việc sử dụng nông dược tràn lan còn làm giảm
đa dạng sinh học.
III. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ CHƯƠNG TRÌNH HÀNH ÐỘNG VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG Ở QUI MÔ TOÀN CẦU |
Năm 1992, hội nghị về môi trường của Liên hiệp quốc đã
qui tụ các nguyên thủ quốc gia và các chuyên gia môi trường của
tất cả các nước trên thế giới.
Hội nghị đã đánh giá tình trạng môi trường toàn cầu
trong 20 năm (từ 1972-1992) và đề ra các hành động cho thời gian
tới. Hội nghị đã soạn
thảo và thông qua các công ước (convention) về các vấn đề môi
trường toàn cầu. Trong đó
ta có thể kể:
-
Công
ước về đa dạng sinh học
-
Công ước về thay đổi khí hậu
-
Công
ước về sự sa mạc hóa
-
Công
ước về đại dương
Các công ước này sau đó được các quốc gia duyệt và ký
tên, xem đó là cơ sở để hành động và phối hợp hành động
để bảo vệ môi trường của tất cả mọi người.
Các phương hướng và chương trình hành động để bảo vệ
môi trường ở qui mô toàn cầu đã được phổ biến rộng rãi
cho tất cả các nhà lãnh đạo, các nhà chuyên môn và công chúng có
quan tâm. Các tài liệu này
được lưu trữ ở các thư viện và mọi người đều có thể
tham khảo.
IV.
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ CHƯƠNG TRÌNH HÀNH ÐỘNG
VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG Ở VIỆT NAM
Dân số nước ta gia tăng quá nhanh với tỉ lệ gia tăng
hằng năm là 2,1%, cao hơn mức trung bình toàn thế giới (1,7%).
Mỗi năm có thêm 1,5 triệu nhân khẩu.
Ðiều này gây một áp lực thực sự to lớn cho vấn đề
sản xuất lương thực, tài nguyên và môi trường.
Cho nên, nhất thiết phải giảm đà gia tăng dân số để
trong vài thập niên tới dân số có thể đạt được mức ổn định.
Trong 50 năm qua, nông nghiệp nước ta phát triển chậm về
sản lượng lương thực, năng suất cây trồng và bình quân lương
thực tính theo đầu người còn ở khoảng hơn 300 kg, tức còn
rất thấp, và là mối đe dọa thường xuyên của mọi người.
Cho nên trong thời gian tới, cần gia tăng sản lượng lương
thực bằng cách giải phóng sức sản xuất nông nghiệp, khai thác
và sử dụng hợp lý tiềm năng đất đai, sức lao động, vốn và
kinh nghiệm sản xuất của nông dân.
Cần cân nhắc kỷ việc khai khẩn đất mới, phá rừng
trồng lúa, sao cho có hiệu quả kinh tế đồng thời bảo vệ môi
trường.
Trong mấy chục năm qua, rừng và đa dạng sinh học của nước
ta bị tàn phá nghiêm trọng. Năm 1943, rừng che phủ 44% tổng diện tích, đến
nay chỉ còn 20 đến 28% tức là rất thấp so với mức an toàn sinh
thái (bằng hay trên 1/3 tổng diện tích).
Hàng năm có từ 160-200 ngàn ha rừng bị mất đi.
Rừng bị mất kéo theo sự giảm đa dạng sinh học vốn rất
phong phú và đa dạng. Nhiều loài đã và đang bị tuyệt chủng. Trong 4 thập niên qua, có ít nhất là 200 loài chim và
120 loài thú bị diệt vong (Báo cáo của CHXHCNVN, 1992).
Biện pháp bảo vệ rừng và đa dạng sinh học là cấp
thiết sống còn của đất nước. Chúng
ta cần thực hiện các biện pháp trước mắt và lâu dài như sau:
-
Cấm
phá rừng nguyên sinh, rừng đầu nguồn.
-
Ổn
định dân số, giảm nghèo đói cho dân vùng rừng núi và các vùng
nông thôn.
-
Có
chính sách giao đất, giao rừng bảo đảm lợi ích nông dân và
lợi ích quốc gia
-
Trồng
lại rừng và cây phân tán ở tất cả các nơi.
-
Kiểm
soát việc săn bắt, buôn bán và tiêu thụ động vật hoang dã.
-
Cấm
các phương tiện đánh bắt có tính cách hủy diệt sự sống
(chất độc, bom mìn, điện, lười diệt chủng...).
-
Củng
cố và mở rộng các vườn quốc gia, các khu bảo tồn tài nguyên.
Môi trường nước, không khí và đất đã bị ô nhiễm, có
khi đến mức trầm trọng cả ở thành thị lẫn nông thôn.
Rác thải, nước thải và khí thải ở các đô thị là vấn
đề phức tạp nhất. Ở nông
thôn, tập quán ở theo kinh rạch, không đủ điều kiện vệ sinh,
lạm dụng phân bón và nông dược làm cho môi trường nông thôn cũng
ô nhiễm, đặc biệt là khan hiếm nước sạch.
Ðiều đáng nói là nước ta chưa có hệ thống sử lý chất
thải, cho nên những thứ dơ bẩn điều vứt trực tiếp ra môi trường.
Ðể từng bước cải thiện tình trạng ô nhiễm môi trường
cần có các biện pháp sau đây:
-
Nâng
cao dân trí, làm cho mọi người thấy rằng môi trường xung quanh và
các công trình công cộng là của chúng ta, chớ không phải của chúng
nó.
-
Các
tiêu chuẩn quốc gia và địa phương về chất thải phải được
mọi người tuân thủ. Do đó,
nhà máy, xí nghiệp phải tự giảm thiếu chất thải bằng qui trình
công nghệ và xây dựng hệ thống xử lý chất thải của cơ sở.
-
Khuyến
khích công nghệ sạch
(sử dụng phân hữu cơ thay thế một phần phân hóa học, biện pháp
quản lý tổng hợp dịch hại (IPM) ở nông thôn; công nghệ ít
chất ô nhiễm trong công nghiệp...).
-
Xây
dựng nhà máy xử lý chất thải sinh hoạt.
5. Quản lý và qui hoạch môi trường
-
Thành
lập Bộ Khoa học - Công nghệ - Môi trường và các Sở Khoa học -
Công nghệ - Môi trường ở các tỉnh.
-
Xây
dựng chính sách và pháp luật về môi trường.
-
Ban
hành tiêu chuẩn môi trường và cách đánh giá tác đông môi trường.
-
Xây
dựng hệ thống quan trắc (monitoring system) quốc gia.
-
Ðẩy
mạnh nghiên cứu về môi trường nhằm giải quyết
các vấn đề cấp bách, đồng thời hướng tới việc phát
triển bền vững.
-
Tăng
cường hợp tác quốc tế và khu vực trong việc bảo vệ và qui
hoạch môi trường.
-
Nâng
cao dân trí tổng quát và cải thiện điều kiện sống của quần
chúng.
-
Ðưa
chương trình giáo dục về môi trường, tình yêu thiên nhiên vào các
lớp học chính khóa và ngoại khóa (du khảo, tham quan).
-
Sử
dụng các phương tiện thông tin đại chúng.
-
Ðào
tạo đội ngũ cán bộ có kiến thức cơ bản về khoa học môi trường
và có khả năng đề xuất các ý kiến xử lý và bảo vệ môi trường.