_______________________________________________________________________________________________
CHƯƠNG
1
I.
ÐỊNH NGHĨA
|
Môn học Môi trường và Con người đôi khi còn gọi là Khoa
học môi trường nghiên cứu các
tác động qua lại của môi trường và con người.
Thuật ngữ môi trường liên quan đến mọi thứ xung quanh chúng
ta: không khí, nước, đất cũng như thực vật, động vật và vi
sinh vật sống ở các nơi vừa nói.
Ngược lại, con người cũng
là một sinh vật với đầy đủ ý nghĩa của nó, tác động lên môi
trường nhưng với qui mô chưa từng có trong lịch sử cuả trái
đất.
Môn học này đề cập tới những vấn đề sâu rộng gây ra
bởi sự gia tăng dân số quá mức, sự cạn kiệt tài nguyên và ô
nhiễm môi trường. Ðây là
những vấn đề then chốt cho sự sống cuả con người.
Ðể giải quyết các vấn đề khổng lồ cuả sự gia tăng dân
số quá mức, sự cạn kiệt tài nguyên và ô nhiễm môi trường,
đòi hỏi phải có nhiều kiến thức khoa học: sinh học, sinh thái
học, khoa học trái đất, khoa học xã hội, khoa học kinh tế....
Trong đó môn sinh thái học có vai trò hết sức quan trọng.
Có thể xem môn học Môi trường và Con người là phần ứïng
dụng của sinh thái học, nhằm giải quyết các vấn đề nóng
bỏng của xã hội. Ðó là các
vấn đề dân số (population); tài nguyên (resources); và ô nhiễm
(pollution) đang gây nên cuộc khủng
hoảng môi trường hiện nay.
Sự gia tăng không mong đợi của loài người tạo nên một
nhân tố hàng đầu cuả sự huỷ hoại sinh quyển.
Dù rằng sự đông dân đã xảy ra từ nhiều thế kỷ ở vài
vùng như châu Á, nhưng sự tăng trưởng gia tốc cuả dân số thế
giới vốn đã quá đông đúc tạo nên một sự kiện cơ yếu, đặc
sắc cuả con người, gọi là sự bùng nổ dân số ở thế kỷ
20.
Việc quan trọng hơn không chỉ là số lượng vốn đã quá
lớn, mà còn là dân số tăng với tốc độ lũy tiến (vitesse
exponentielle). Không một chuyên
gia nào có thể dự kiến chính xác khi nào thì dân số ổn định.
Do đó Dorst (1965) xem sự bùng nổ dân số ở thế kỷ 20 là
một hiện tượng có qui mô sánh với thảm họa điạ chất đã làm
đảo lộn hành tinh.
Năm 1997, dân số thế giới là 5,8 tỉ người và gia tăng hàng
năm là 1,7%. Khoảng 40 năm
nữa, dân số có thể tăng gấp đôi nếu không có những biện pháp
ngăn chặn đà gia tăng này. Sự
bùng nổ dân số gây áp lực lên tài nguyên và môi trường.
Tài nguyên là những thứ mà chúng ta lấy từ môi trường để
phục vụ nhu cầu của con người. Vài
loại tài nguyên được sử dụng trực tiếp như: không khí sạch,
nước sạch từ sông hồ, đất tốt và cây cỏ.
Ða số khác như: dầu mỏ, sắt thép, than đá , nước ngầm
thì phải qua chế biến xử lý trước khi dùng.
Tài nguyên có thể được xếp thành các loại: tài nguyên vô
tận, tài nguyên tái tạo được và tái nguyên không thể tái tạo
được. Tài nguyên vô tận
(perpetual resource), như năng lượng mặt trời được xem là không
cạn kiệt ở mức độ thời gian đời người. Tài nguyên có thể tái tạo được (renewable
resource) như: gỗ, cá, thú rừng... có thể phục hồi trở lại
nếu được khai thác với qui mô hợp lý.
Còn tài nguyên không thể tái tạo (nonrenewable resource) như:
than đa, dầu mo,í kim loại... với số lượng có hạn khi được
sử dụng sẽ không phục hồi trở lại.
Vì dân số thế giới tiếp tục gia tăng, nhiều nguồn tài
nguyên cần thiết cho sự sống còn
của con người và hàng triệu sinh vật khác sẽ ít đi.
Các nước đang phát triển thì sử dụng quá đáng các
nguồn tài nguyên có thể tái tạo được, trong khi các nước phát
triển thì tiêu xài quá mức các nguồn tài nguyên không thể tái
tạo được.
Các
tài nguyên tái tạo bị khai thác quá mức sẽ không thể phục
hồi được, còn các tài nguyên không thể tái tạo sẽ bị đe
dọa cạn kiệt trong thời gian khác nhau tùy theo trữ lượng cuả
chúng và tốc độ khai thác của con người. Như dầu mỏ chẳng
hạn, là máu cuả xã hội công nghiệp hiện đại, có thể hết
sạch trên trái đất. Ngoài ra còn có khoảng 18 loại khoáng sản
quan trọng về mặt kinh tế sẽ cạn kiệt trong vài thập niên
tới.
Bên
cạnh đó, sự khai thác đất trồng quá đáng và không đúng cách
cũng làm cho đất bị xói mòn và biến thành sa mạc.
Sự tàn phá rừng, nhất là rừng nhiệt đới với tốc độ
hơn 11 triệu ha hằng năm như hiện nay chẳng những gây sự hủy
diệt nơi ở cuả các động vật mà còn gây nên sự thay đổi khí
hậu toàn cầu. Ước lượng
mỗi ngày có hàng trăm loài sinh vật bị tuyệt chủng.
Ô nhiễm môi trường hiện nay là sự thay đổi không mong
muốn cuả các tính chất của nước, không khí, đất hay thực
phẩm gây tiêu cực cho sự sống, sức khỏe và sinh hoạt cuả người
cũng như của các sinh vật khác.
Môi trường đất, nước, không khí bị ô nhiễm bởi các
loại chất thải do hoạt động cuả con người.
Rác thải, nước thải và các khí thải từ các khu dân cư,
nhà máy công sở, trường học, bệnh viện hàng ngày làm cho môi
trường ngày càng xấu đi. Trong
các loại chất thải, có nhiều chất rất độc, khó hay không bị
phân hủy sinh học.
Mưa acid, mỏng màn ozon, thay đổi khí hậu toàn cầu là hậu
quả đáng ngại của sự phát triển của xã hội loài người.
Cùng với ô nhiễm nước, đất và không khí chúng kìm hãm và
đe doạ sự phát triển của con người.
Vì vậy việc thay đổi cách hành động vừa phát triển xã
hội vừa bảo vệ môi trường là cách làm phù hợp của tất cả
chúng ta. Ðó là chiếm lược
phát triển bền vững (sustainable development strategy) là mục tiêu
của môn học và cũng là cách sống
tương lai của chúng ta.
III.
MỐI TƯƠNG QUAN GIỮA DÂN SỐ, SỬ DỤNG TÀI NGUYÊNVÀ Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG |
Theo mô hình đơn giản thì sự suy thóai và ô nhiễm môi trường
ở cùng một nơi tùy thuộc vào 3 yếu tố: (1) số người dân, (2)
số đơn vị năng lượng mỗi người sử dụng và (3) khối lượng
của sự suy thoái và ô nhiễm môi trường do mỗi đơn vị năng lượng
gây ra (Miller, 1993).
Sự đông dân bao gồm sự quá nhiều người và sự
quá nhiều tiêu thụ. Sự quá
nhiều người xảy ra ở những nơi mà số người nhiều hơn thức
ăn, nước uống và các tài nguyên khác.
Việc này thường xảy ra ở các nước đang phát triển, làm
suy thoái các tài nguyên tái tạo và là nguyên nhân của sự nghèo
đói. Sự quá nhiều tiêu thụ xảy ra ở các nước công nghiệp,
khi một số ít người sử dụng một lượng lớn tài nguyên.
Ðây là nguyên nhân chính làm cạn kiệt nguồn tài nguyên không
thể phục hồi và làm ô nhiễm môi trường.
Bảng
phân tích các mối tương quan giữa dân số, tài nguyên và môi trường
(Theo
Chiras, 1991)
|
Liên
hệ |
Tóm
tắt các ảnh hưởng |
1 |
Dân
số lên môi trường |
Sô
úlượng dân xác định nhu cầu tài nguyên, cách thụ đắc,
số lượng dùng. Các nhân
tố dân số ( trình độ xã hội, kinh tế cuả một nước) có
ảnh hưởng lên việc sử dụng tài nguyên.
Các nước công nghiệp có nhu cầu về tài nguyên phức
tạp và có khuynh hướng sử dụng nhiều tài nguyên không
thể tái tạo. Các nước đang phát triển sử dụng nhiều tài
nguyên tái tạo được. Sự
phân bố dân cư cũng ảnh hưởng lên sự cung cấp, khai thác
và sử dụng tài nguyên. |
2 |
Dân
số lên ô nhiễm |
Dân
số gây ra ô nhiễm qua việc khai thác và sử dụng tài nguyên.
Ô nhiễm có thể xảy ra từ việc sử dụng một tài
nguyên như là nơi chứa rác thải sinh hoạt và công nghiệp.
Ngoài ra khai thác tài nguyên (than đá, dầu và khí) gây
ra sự suy thoái môi trường. Khối
lượng tài nguyên và cách thức khai thác và sử dụng chúng xác
định khối lượng ô nhiễm. |
3 |
Tài
nguyên lên dân số |
Tác
động dương. Khám phá và sử dụng tài nguyên mới (dầu,
than) làm
tăng dân số, cũng như sự phát triển xã hội, kinh tế, công
nghệ. Tài nguyên cho phép con người di chuyển đến các nơi
ở mới cũng như việc lấy và sử dụng tài nguyên trước đây
không được dùng. Thêm vào đó sự phát triển tài nguyên
tạo nhiều nơi ở trong các môi trường khó khăn.. Tác
động âm. Cạn kiệt tài nguyên làm giảm dân số và làm
giảm sự phát
triển xã hội, kinh tế, công nghệ.
Suy thoái môi trường (ô nhiễm không khí) có thể làm
giảm dân số hay tiêu diệt quần thể. |
4 |
Tài
nguyên lên ô nhiễm |
Khối
lượng, cách thức khai thác và sử dụng tài nguyên có thể
ảnh hưởng lên ô nhiễm. Càng
khai thác và sử dụng nhiều tài nguyên thì càng gây nhiều ô
nhiễm. Cạn kiệt tài
nguyên có thể làm giảm ô nhiễm. |
5 |
Ô
nhiễm lên dân số |
Ô
nhiễm có thể làm giảm dân số cũng như giảm sự phát
triển xã hội, kinh tế và công nghệ.
Ô nhiễm làm gia tăng tử vong và bệnh tật nên ảnh hưởng
xấu lên kinh tế và xã hội. Ô
nhiễm có thể làm thay đổi thái độ của con người từ đó
làm thay đổi luật lệ, cách thức khai thác và sử dụng tài
nguyên. |
6 |
Ô
nhiễm lên tài nguyên |
Ô
nhiễm một môi trường có thể gây thiệt hại lên môi trường
khác. Các luật mới
nhằm làm giảm ô nhiễm có thể thay đổi sự cung cầu, khai
thác và sử dụng tài nguyên. |
Mô
hình Dân số - Tài nguyên - Môi trường cho thấy con người sử
dụng tài nguyên và gây ô nhiễm. Cả
ba thành phần này có tác động tương hỗ như bảng phân tích ở
trên.
Chúng
ta thấy sự đông dân khiến người ta sử dụng nhiều tài nguyên
hơn và làm suy thoái môi trường nhiều hơn. Chừng
nào chúng ta chưa thay đổi cách sống, chưa ngừng hủy hoại môi
sinh và các sinh vật khác thì sự sống sót và sự phát triển
cuả chúng ta còn bị nhiều nguy cơ.
Môn học này cung cấp cho chúng ta các kiến thức cơ bản về mối quan hệ giữa con người với môi trường và với các sinh vật khác. Từ đó chúng ta có thể có thái độ và hành vi nhằm làm cho xã hội loài người tiếp tục phát triển mà không làm hại các sinh vật khác và sử dụng lâu bền các nguồn tài nguyên.
Giáo trình này được chia làm 3 phần với 15 chương. Phần I (từ chương 1 đến chương 5) đề cập đến các kiến thức cơ bản về sinh thái học trong đó nhấn mạnh mối quan hệ giữa môi trường và con người. Phần II (từ chương 6 đến chương 11) đề cập đến việc sử dụng các loại tài nguyên cần thiết của con người. Phần III (từ chương 12 đến chương 15) đề cập đến các loại ô nhiễm môi trường và các biện pháp bảo vệ tài nguyên và môi trường.
Hình 1. Mối tương quan giữa dân số, sử dụng tài nguyên và ô nhiễm môi trường