2.
VAI TR̉ CỦA MỘT SỐ LOÀI THỨC ĂN TỰ NHIÊN
TRONGNUÔI TRỒNG THỦY SẢN
1.
TỔNG QUAN VỀ T̀NH H̀NH NUÔI THỨC ĂN TỰ NHIÊN |
Thức ăn tự
nhiên đóng vai tṛ rất quan trọng, quyết định
sự thành công trong ương nuôi nhiều loài động
vật thủy sản, đặc biệt là ở giai đoạn
ấu trùng. Nghiên cứu đặc điểm sinh học,
kỹ thuật nuôi một số loại thức ăn tươi
sống cho động vật thủy sản từ lâu đă
được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Các đối
tượng chủ yếu đang được quan tâm
nghiên cứu như : Vi tảo, luân trùng, giáp xác râu ngành,
Artemia, trùng chỉ.
Nghề
nuôi giáp xác, cá biển và nhuyễn thể đang ngày càng phát
triển mạnh, v́ thế, nhu cầu con giống đang
ngày gia tăng và cần được giải quyết.
Trong sản xuất giống, thức ăn và kỹ
thuật cho ăn khi ương ấu trùng là vấn đề
rất quan trọng. Ngày nay, mặc dù có nhiều kỹ
thuật tiên tiến trong sản xuất thức ăn nhân
tạo cho ấu trùng, nhưng những thức ăn tươi
sống như tảo, luân trùng, giáp xác râu ngành, Artemia.. .
vẫn được xem là thức ăn vô cùng quan
trọng và có tiềm năng rất lớn trong sản
xuất giống. Việc nuôi và sử dụng các sinh
vật làm thức ăn này đă có một lịch sử
lâu đời ở nhiều nước và ngày nay đang được
áp dụng rộng răi tên toàn thế giới.
1.1. Nuôi vi
tảo |
Đối
với tảo, hai loài Isochrisys
galbana và Pyramimonas grossii đầu
tiên được Bruce báo cáo là đă phân lập và nuôi đơn
chúng dùng làm thức ăn trong nuôi trồng thủy sản, đặc
biệt là dùng cho nuôi ấu trùng trai, hầu. Tiếp theo đó,
là kết quả nuôi thành công tảo khuê cho nhiều loài động
vật không xương sống khác nhau của Allen và Nelson,
1910. Đến năm 1941, khi Matsue t́m ra phương pháp
phân lập và nuôi cấy tảo thuần loài Skeletonema costatum th́ loài tảo
này đă được
Hudinaga dùng làm thức ăn cho ấu trùng tôm Penaeus japonicus và đă nâng
tỉ lệ sống của ấu trùng đến giai đoạn
Megalope lên 30%, thay v́ 1% so với các kết quả trước
đây (Liao, 1983). Phương pháp nuôi tảo khuê cho ấu
trùng tôm của Hudinaga được gọi là “phương
pháp nuôi cùng bể” và sau đó phương pháp này được
Loosanoff áp dụng trong ương nuôi ấu trùng hai mảnh
vỏ.
Từ
những năm 1940, người ta rất quan tâm đến
nuôi sinh khối tảo, không phải chỉ dùng cho nghề
nuôi thủy sản mà c̣n v́ nhiều mục đích khác, như:
cải tạo đất, lọc nước thải,
nguồn thực phẩm cho con người hay thức ăn
tươi sống. Beijerinck đă nghiên cứu nuôi tảo Chlorella vulgaris lần đầu
tiên trong ống nghiệm và đĩa petri. Nhiều nghiên
cứu tiếp theo được tiến hành và cho đến
năm 1948-1950, một công tŕnh đầu tiên chuyển phương
pháp nuôi cấy trong pḥng thí nghiệm ra qui mô sản xuất
lớn đă được thực hiện bởi nhà khoa
học Litter, của Cambridge (Soeder, 1986). Tuy nhiên, về sau
nuôi đại trà tảo Chlorella phát triển chủ
yếu là ở Đông Nam Châu Á, đặc biệt là ở
Nhật, Trung Quốc, Đài Loan (Richmon, 1986). Ví dụ:
Ở Đài Loan, nuôi sản xuất tảo được
h́nh thành vào năm 1964, đến năm 1977, đă có 30
trại sản xuất với công suất 200 tấn/tháng,
sản xuất khoảng 1.000 tấn/năm. Các loài tảo
khác như Dunadiella, Scenedesmus,
Spirulina... cũng được nghiên cứu và phổ
biến ra qui mô sản xuất. Số liệu thống kê
cho thấy, tổng sản lượng hàng năm của
tảo Spirulina trên thế
giới là 850 tấn, trong đó, Mexicô đóng góp 300 tấn,
Đài Loan: 300 tấn, Hoa Kỳ: 90 tấn, Thái Lan 60
tấn, Nhật Bản :40 tấn và Israel: 30 tấn (Richmon,
1986).
Để
phục vụ cho mục đích nuôi thủy sản,
nhiều loài tảo khác cũng được nghiên cứu
nuôi trong điều kiện pḥng thí nghiệm hoặc ở
qui mô sản xuất. Wendy và Kevan, 1991, đă tổng
kết: ở Hoa kỳ, các loài Thalasiossira
pseudomonas, Skeletonema, Chaaaetoceros calcitrans, Chaetoceros mulleri,
Nannochloropsis ocula, Cchlorella minutissima... được nuôi để
làm thức ăn cho luân trùng, ấu trùng hai mảnh vỏ,
ấu trùng tôm và cá theo phương pháp từng đợt
hoặc bán liên tục trong những bể composite 2.000-25.000
lít. Ở Washington, năng suất tảo loài Thalasiossira pseudomonas có thể đạt
720 kg khô/24.000 tấn/8 tháng ; c̣n ở Hawaii, năng suất
loài Nanochlopsis đạt khoảng 2,2 triệu lít/năm.
Trung Quốc bắt đầu
nghiên cứu nuôi tảo từ những năm 1940. Nhưng
măi đến 1980, chỉ có hai loài Phaeodactylum triconutum và Tetraselmis
subcordiformis là đối tượng nuôi dùng trong ương
ấu trùng tôm. Về sau, có nhiều loài đă được
phân lập để nuôi cấy. Song, những loài nuôi chính
bao gồm Isochrisys galbana, Pavlova
viridi, Chaetoceros muelleri, Phaeodactylum triconutum, Tetraselmis dùng
cho ấu trùng tôm Penaeus chinensis và
Argopecten. Chúng được
nuôi bằng phương pháp thu từng đợt. Năng
suất nuôi của Isochrisys
galbana có thể đạt 4,8
x 1015 tế bào/năm.
Ở Đài Loan, các đối tượng
nuôi chính là Nannochloropsis oculata,
Tetraselmis, Chlorella sp., dùng cho ương nuôi ấu trùng
họ tôm he (Penaeus), loài Isochrysis
galbana trong ương nghêu... Riêng loài Skeletonema costatum, sản lượng nuôi có thể đạt
tới 9.000 tấn/năm.
Nuôi
tảo ở Nhật cũng rất quan trọng với
nhiều đối tượng nuôi và bằng phương
pháp thu từng đợt hoặc bán liên tục: Chaetoceros sp., Penaeus japonicus và Metapenaues
ensis, Isochrysis sp. và Pavlova
lutheri dùng cho hai mảnh vỏ, Tetraselmis sp., Nanochloropsis oculata, Chlammydomonas sp. cho
luâu trùng Brachionus plicatilis.
Nuôi
tảo khuê cũng rất phổ biến ở Thái Lan,
nhất là loài Skeletonema costatum
và Chaetoceros calcitrans dùng cho
ấu trùng tôm. Bể nuôi thường là bể fiberglass có
thể tích 1.000 lít hay bể ximăng 4.000 lít. Ước đoán
năng suất đạt được khoảng 3 x 1012
tb/tháng.
1.2. Nuôi luân
trùng |
Bên
cạnh tảo phiêu sinh, luân trùng (hay c̣n gọi là trùng bánh
xe), loài Brachinus plicatilis
cũng đóng vai tṛ quan trọng trong nghề nuôi trồng
thủy sản, đặc biệt chúng là thức ăn cho
ấu trùng của cá biển. Ở nhiều nước như
Nhật Bản, Đài Loan, Thái Lan, nuôi luân trùng đă
trở thành nghề nuôi thương phẩm. Quá tŕnh nuôi
luân trùng của những nước này mang nét đặc trưng
riêng của mỗi quốc gia.
H́nh 11.1: Cấu tạo và ṿng đời của luân trùng
Ở Nhật, Brachionus plicatilis lần đầu
tiên được Katashi (1995) nghiên cứu và phát hiện như
một loại thức ăn lư tưởng cho ấu trùng
cá biển Ayu (Plecoglossus
altivelia). Năm 1964, trại Yashima bắt đầu nuôi
sinh khối Brachionus plicatilis,
sau đó, năm 1965, chúng được dùng rộng răi cho
loài cá Pagrus major và là thức
ăn có giá trị cao. Hiện nay, nuôi sản xuất Brachionus plicatilis ḍng S và L là
mục tiêu của nghề nuôi cá Pagrus
major, Japanese flounder, Japanese sweet fish.. .Với qui mô sản
xuất lớn, nuôi luân trùng ở Trung Tâm Nuôi Cá có thể
4-8 triệu con/ngày.
Năng suất trung b́nh 30 con/ml/ngày.
Ở
Hoa Kỳ, Theilaccker và McMaster đă công bố lần đầu
tiên kết quả nghiên cứu về Brachionus plicatilis là một thức ăn tuyệt
vời cho ấu trùng cá biển vào năm 1971 (Wendy và Kenvan,
1991). Tuy nhiên, nuôi luân trùng đến nay vẫn ở qui mô
thí nghiệm, chủ yếu phục vụ cho ương
nuôi các loài Mullet, cá măng, Pacific threatfin và mahimah, Red drum, cá
chẽm trắng và California halibut. Sản lượng nuôi
mỗ ngày thường đạt 100-500 triệu con, năng
suất trung b́nh 25,7-75 cá thể/ml/ngày.
Tại Trung
Quốc, hầu hết các nghiên cứu về luân trùng Brachionus plicatilis làm thức ăn
cho ấu trùng cá biển được tiến hành từ
năm 1980. Đến nay, nuôi luân trùng với qui mô lớn
là mục tiêu của nghề nuôi cá chẽm. Năng suất
b́nh quân là 10 cá thể/ml/ngày (Chen, 1991).
Nuôi luân trùng ở Đài
Loan đă trở thành nghề nuôi thương phẩm
phục vụ cho việc sản xuất của 11 loài cá
biển. Sản lượng trung b́nh ước đoán
khoảng 1 tỉ cá thể/ngày với năng suất là 12
cá thể/ml/ngày (Liao, 1991).
Sản
xuất luân trùng ở Thái Lan cũng được Kong Keo
báo cáo năm 1991, với sản lượng 166 triệu
con/ngày và năng suất là 30 cá thể/ml/ngày. Luân trùng đực
dùng làm thức ăn cho đối tượng nuôi thủy
sản chính như: cá chẽm, cá mú, tôm càng xanh.
1.3. Nuôi Artemia |
Ngoài
các loài tảo và luân trùng kể trên, trong nuôi trồng
thủy sản c̣n sử dụng Artemia như một
nguồn thức ăn tự nhiên đặc biệt quan
trọng. Mặc dù Artemia được biết đến
hàng thế kỷ nay, song vai tṛ quan trọng của nó đối
với nghề nuôi thủy sản đặc biệt là
trong ương nuôi ấu trùng tôm cá chỉ được
biết rơ từ những năm 1930 do Seale (1933) và Rollefen
(1939) công bố. Từ́ đó,
Artemia được sử dụng mạnh mẽ trong
nghề nuôi trồng thủy sản.
H́nh 11.2. Cấu tạo Artemia
Những năm 1950,
Artemia được cung cấp thương mại đầu
tiên bởi hai nguồn ở Hoa Kỳ là Vịnh San
Francisco (California) và Hồ nước
mặn lớn (Great Salt Lake0 (ở Utah). Lúc này, Artemia được
bán cho nuôi cá cảnh với giá rất thấp (<10USD/kg).
Song, đến đầu những năm 1960, với việc nghiên cứu
sản xuất giống cá và giáp xác bắt đầu phát
triển, thị trường
Artemia đă có nhiều cơ hội lớn để
mở rộng. Các ḍng Artemia San Francisco, Great Salt Lake, và
Chaplin Lake (Canada) là những ḍng Artemia đầu tiên cho nghiên cứu và sản xuất
giống thủy sản.
Trong
khi việc nghiên cứu và sản xuất giống ngày càng
trở nên phổ biến trên thế giới, năng
suất Artemia từ các hồ lại giảm, thế
nhập khẩu tăng cao đă làm tăng cao giá Artemia trong
những năm giữa 1970 (50-100USD/kg).
Do thiếu Artemia, giá thành
cao, nhu cầu mở rộng trại sản xuất
thủy sản lại lớn, đôi lúc, nhười ta có
ư định không dùng Artemia và nghiên cứu sử dụng
loại thức ăn khác cho nuôi thủy sản.
Tuy
nhiên, với những nghiên cứu cơ bản và nghiên
cứu ứng dụng đầu tiên ở Đại
Học Ghen (Bỉ) đầu những năm 1970 đă cho
biết rằng sự thiếu hụt trứng Artemia
chỉ là vấn đề tạm thời (Sorgeloos,
1976). Điều này cho được
khẳng định khi việc sản xuất trứng bào
xác Artemia được bắt đầu với một
số nguồn mới kể cả những nước
thế giới thứ ba. Điều này được
thực hiện với sự giúp đỡ của các
tổ chức quốc tế, kể cả tư nhân. Năm
1980, t́nh h́nh sản xuất Artemia trở nên thay đổi
rơ rệt. Các sản phẩm
mới xuất hiện từ Argentina, Australia, Brazil,
Colombia, Trung Quốc, Pháp, Thái
Lan. Tổng lượng Cyst
tiêu thụ bởi các trại giống lúc ấy là 60
tấn.
Mặc
dù do t́nh h́nh thời tiết thất thường, sản lượng
Artemia đôi lúc dao động lớn, nhưng dần
dần cũng được ổn định. Những
năm 1980, trứng Artmiea được tiêu thụ hàng năm
lên đến vài ba trăm tấn
do sự mở rộng của các hoạt động
trại giống. Mặc dù
nhu cầu Artemia đă được đáp ứng
phần lớn, song, cần phải tăng cường
sản xuất với nhiều nguồn để có
thể đáp ứng nhu cầu cao hơn trong thời gian
tới. Mặc dù đă có nhiều nguồn Artemia, song,
nguồn trứng San Francisco chiếm đến 70% sản
lượng.
Tuy
trứng Artemia thu từ tự nhiên chiếm phần
lớn sản lượng, song, việc nuôi Artemia thủ
công trên ruộng muối cũng có ư nghĩa lớn ở
các nước Đông Nam Á (Việt Nam) và Châu Mỹ la Tinh để
đáp ứng cho nhu cầu
phát triển ở địa phương.
Hiện
nay, sản lượng trứng Artemia trên thế giới
hàng năm khoảng 2000 tấn khô.
Nguồn trứng thu từ hồ tự nhiên (Great Salt
Lake) đang là nguồn chủ yếu.
2.
VAI TR̉ CỦA MỘT SỐ LOÀI THỨC ĂN TỰ NHIÊN
TRONG NUÔI TRỒNG THỦY SẢN
2.1.
Vi tảo |
Đến nay, có khoảng trên 40 loài
tảo đă được phân lập, nuôi cấy và
sử dụng làm thức ăn cho ấu trùng các loài
thủy sản. Tùy thuộc vào chất lượng và tính
có sẵn của các loài tảo
mà việc sử dụng chúng cho các đối tượng
thủy sản cũng khác nhau giữa các nơi trên thế
giới. Tuy nhiên, có một số loài tảo quan trọng được
nuôi và sử dụng phổ biến trên thế giới như
ở bảng dưới đây.
Về phương thức sử
dụng tảo, chúng thường được cho ăn
trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua sinh vật trung
gian khác, ở dạng tươi sống hay chế
biến, thuần chủng hay hỗn hợp nhiều loài.
Mặc dù người ta thường áp dụng phương
pháp cho đối tượng nuôi thủy sản ăn
chỉ một loài tảo nào đó,
nhưng Liao (1983) cho rằng: không có loài tảo đơn độc
nào lại tốt nhất về mọi phương
diện cho việc nuôi và sử dụng chúng làm thức ăn
cho ấu trùng tôm he. Tầm quan trọng của tảo chính
là từ giá trị dinh dưỡng của chúng.
Bảng 11.1:
Lớp và giống tảo nuôi dùng làm thức ăn cho
các đối tượng thủy sản (Pauw và Person,
1991):
Lớp |
Giống |
Đối tượng cho ăn |
Bacilariophyceae |
Skeletonema
|
PL, BL, BP |
|
Thalassiosira |
PL, BL, BP |
|
Phaeodactylum |
PL, BL, BP, ML, BS |
|
Chaetoceros |
PL, BL, BP, BS |
|
Cyclindrotheca |
PL |
|
Bellerochea |
BP |
|
Actinocysclus |
BP |
|
Nitzchia |
BS |
|
Cyclotella |
BS |
Haptophyceae |
Isochrysis |
PL, BL, BP, ML, BS |
|
Pseudoisochrysis |
BL, BP, ML |
|
Dicrateria |
BP |
|
Cricospaera |
BP |
|
Coccolithus |
BP |
Chrysophyceae |
Monochrysis |
BL, BP, BS, MR |
Prasinophycease |
Tetraselmis |
PL, BL, BP, AL, BS |
|
Pyramimonas |
BL, BP |
Cyptophyceae |
Chroomonas |
BP |
|
Cryptomonas |
BP |
|
Rhodomonas |
BL |
Xanthophyceae |
Olisthodiscus |
BP |
Chlorophyceae |
Carteria |
BP |
|
Dunadiella |
BP, BS, MR |
|
Chlamydomonas |
BL, BP, FZ, MR, BS |
|
Chlorococcum |
BP |
|
Chlorella |
BL, ML, BS, MR, FZ |
|
Scenedesmus |
FZ, MR, BS |
|
Nannochloris |
BP, MR, SC |
|
Brachiomonas |
BP |
Cyanophyceae |
Spirulina |
PL, BP, BS, MR |
PL, Ấu trừng tôm biển AL,
Ấu trùng bào ngư
BP, Hậu ấu trùng nhuyễn thể SC, Copepod nước
mặn
FZ,
Động vật phù du nước ngọt
Tuy nhiên, người
ta chú ư đến giá trị dinh dưỡng của tảo
không chỉ riêng thành phần protein mà c̣n là thành phần acid
béo, yếu tố dinh dưỡng không thể thiếu được
đối với ấu trùng của các loài hải sản.
Trong nhiều trường hợp, tảo được
báo cáo không phải là thành phần thiết yếu trong khẩu phần ăn
của các loài sinh vật biển, nhưng thực tế,
chúng có thể là nhân tố thúc đẩy sinh trưởng
của đối tượng nuôi hoặc có tác dụng như
một vi khuẩn lọc nước (Fujimura và Okamoto, 1972;
Barnabe, 1976; Cohen, Finkel và Sussman, 1976; Maddox và Sandifer, 1977;
Malecha, 1983 -trích dẫn của Pauv và Persoone, 1991).
2.1.1. Chlorella
Chlorella được
biết đến nhiều bởi vai tṛ quan trọng
của nó về dinh dưỡng cũng như là nhân tố
môi trường trong nuôi trồng thủy sản. Việc
dùng Chlorella vào trong sản xuất đó là phương pháp
nước xanh được áp dụng rộng răi trong
sản xuất giống tôm càng, một số loài cá và hai
mảnh vỏ.
Khi ương ấu
trùng tôm càng xanh, Cohen (1976) thấy rằng: sự hiện
diện của thực vật phiêu sinh có thể thúc đẩy
sự tăng trưởng của ấu trùng tôm thông qua
việc loại bỏ NH3 và một số chất độc
khác. Hơn nữa, Joshep (1977) cũng ghi nhận: sự
bổ sung tảo sẽ làm cho môi trường nước
trở nên giàu dinh dưỡng, cung cấp những hợp
chất vi lượng mà thức ăn ban đầu và
thức ăn bổ sung không có.
Chlorella
cũng được chú ư nhiều trong sản xuất
giống cua (Scylla serrata). Mặc dù một số công tŕnh
nghiên cứu thu được tỉ lệ sống
của cua chỉ ở mức giới hạn (như thí
nghiệm của Ong Kah Sin (1976) và Heasmen (1983), ương
ấu trùng cua chỉ dùng Artemia; hoặc thí nghiệm
của Chen và Jeng (1980) có
bổ sung Chlorella nhưng không có tác dụng), song, Chlorella
vẫn được dùng rộng răi trong ương
ấu trùng cua. Brick (1974) đạt được tỉ
lệ sống của cua cao nhất bằng cách thêm Chlorella
vào môi trường ương. Hơn nữa, ở Đài
Loan, Nhật Bản, ấu trùng cua cũng được ương
trong môi trường có bổ sung Chlorella (Cowan, 1983; Chen,
1991).
Liao
(1991) báo cáo rằng: Ở Đài Loan khi ương ấu
trùng cá măng, người ta bổ sung Chlorella vào bể
với mật độ: 50-350 x 104 tế bào/lít để
duy tŕ chất lượng nước và quần thể
luân trùng-thức ăn chính của ấu trùng tôm, mặc dù
tôm có ăn trực tiếp tảo hay không chưa được
chứng minh. Trong ương ấu trùng cá Grey mullet, Chlorella cũng được
thêm vào bể ấu trùng trong những ngày đầu tiên
với mật độ 500-700 x 103 tế bào/ml.
Ngoài
ra, Chlorella c̣n là thức ăn rất quan trọng trong ương
nuôi luân trùng và động vật phiêu sinh khác. Bên cạnh
những loài Chlorella biển, loài Chlorella nước
ngọt, Chlorella vulgairs,
cũng được thử nghiệm thành công làm thức
ăn cho luân trùng (Hirayama và ctv., 1988). Yamasaki và ctv. (1989)
cũng chỉ ra rằng: hai dạng đông lạnh
của tảo Nannochloropsis sp. (
loài tảo Chlorella biển) đều cho kết quả tương
tự nhau về tốc độ tăng trưởng
của quần thể luân trùng khi cho ăn hai dạng
tảo trên. Theo báo cáo, tốc độ tăng trưởng
và sức sinh sản trung b́nh của luân trùng cao nhất khi cho ăn Chlorella, tiếp
theo là loài Isochrysis galbana
(Nagata và Whyte, 1992). Mật độ quần thể,
sản lượng và tốc độ sinh trưởng
của luân trùng cũng tăng lên theo sự gia tăng
mật độ tảo ban đầu, đạt đến
40 x 106 tế bào /ml (James và ctv., 1986). Với hàm lượng
HUFA cao, Chlorella không chỉ là thức ăn quan trọng
của luân trùng mà c̣n được dùng để làm giàu
acid béo cho luân trùng và một số động vật phù du
khác trước khi dùng chúng làm thức ăn cho cá và các loài
nuôi thủy sản khác.
2.1.2. Dunaliella
Tảo Dunaliella có chứa hàm lượng
glycerol và b-caroten cao nên được
xem là đối tượng nuôi đầy triển
vọng, dùng làm thức ăn không chỉ trong nghề nuôi
thủy sản mà c̣n nhiều lĩnh vực khác. Trong các
loài thuộc giống Dunaliella,
loài D. salina có hàm lượng b-caroten cao nhất
(Borowithzka, 1990), chiếm 20% trọng lượng khô
(Kranzfelder, 1991). Trong nuôi thủy sản, Dunaliella đóng vai tṛ trong chế độ dinh dưỡng
của nhuyễn thể nhưng với mức độ
khác nhau tùy theo loài nhuyễn thể. Fidalgo và ctv. (1994)
chỉ ra rằng: khi cho nghêu ăn 3 loại tảo khác nhau
(Tetraselmis suecica, Dunaliella
tertiolecta và Phaedodactylum
tricornutum) th́ nghiệm thức cho ăn Dunaliella tertiolecta nghêu có hàm lượng carbohydrate
gia tăng.
Quan
sát quá tŕnh tiêu hóa của ấu trùng Strombus gigas với 8
loại tảo khác nhau (Isochrysis
galbana, Tetraselmis chuii, T. seucica, Dunaliella tertiolecta, Chlamidomonas
cocoides, Thalassiosira fluviatilis, Chlorella sp., và Chaetoceros sp.), Aranda (1994) thấy rằng: quá tŕnh
tiêu hóa tảo Tetraselmis chuii,
Chaetoceros sp. và Chlorella sp.
nhanh hơn so với 5 loài tảo c̣n lại. Sự tiêu hóa
tảo Chaetoceros sp. và Chlorella sp. nhanh hơn so
với tảo D. tertiolecta...Khi
ương ấu trùng Mytilus
galloprovincialis với các loài tảo: Dunaliella tertiolecta, T. seucica, I. Galbana, P. tricornutum, dạng
đơn lẻ hay hỗn hợp, kết quả cho
thấy: tỉ lệ sống và sức tăng trưởng
của ấu trùng thấp nhất ở nghiệm thức
cho ăn hỗn hợp T.
seucica và I. Galbana (Moskera và
ctv., 1989). Dunaliella không
chỉ có vai tṛ quan trọng trong ương nuôi nhuyễn
thể mà chúng c̣n dùng làm thức ăn cho một số loài cá biển, cho
Artemia và động vật phiêu sinh khác.
2.1.3. Spirulina
Cùng với Chlorella và Dunaliella, Spirulina cũng là loài
tảo rất giàu protein, acid amin thiết yếu, acid béo,
khoáng, vitamin và các hợp chất carotenoid nên chúng được
xem là nguồn dinh dưỡng rất tốt trong nuôi
thủy sản. Mustafa và ctv. (1994) báo cáo: Spirulina được thêm vào làm thức ăn
bổ sung cho Pagrus major
với tỉ lệ 5% đă làm tăng tốc độ tăng
trưởng của cá, hiệu quả chuyển đổi
thức ăn và hiệu suất sử dụng protein mà
thành phần protein có trong thịt cá không bị ảnh hưởng xấu. So với những
loại tảo có kích thước lớn được
thí nghiệm trước đó th́ loài Spirulina ảnh hưởng tốt nhất đến
sự tăng trưởng và sử dụng thức ăn
của cá Red sea beam. El- (1994) cũng cho biết: tốc độ
tăng trưởng và hiệu quả sử dụng
thức ăn của cá Silver sea beam khác nhau không có ư nghĩa
giữa nghiệm thức có bổ sung 50% Spirulina trong khẩu phần ăn với
nghiệm thức đối chứng 100% bột cá. Tuy
nhiên, thay 75% Spirulina th́ có
ảnh hưởng bất lợi.
Trong thí nghiệm
về ảnh hưởng của khẩu phần ăn có
bổ sung Spirulina cho cá chép
bột (Catla catla, Labeo rohita,
Cirrhinus mrigal, Hypophthalmichtys molitrix, Ctenopharigodon idella và Cyprinus carpio), Ayyappan và ctv.
(1991) nhận xét: nghiệm thức cho ăn bổ sung 80%
Chlorella cho kết quả tốt nhất. Chow và ctv (1990) khi
nghiên cứu về tốc độ tăng trưởng,
tính ăn ngon miệng, hoạt động của men tiêu
hóa protein (protease) và men tiêu hóa tinh bột (amylase) nêu lên: không
có sự khác nhau có ư nghĩa giữa các nhóm cá cho ăn
thức ăn đối chứng và thức ăn bổ
sung Spirulina. Spirulina cũng được đề nghị
thay thế một phần bột cá trong chế độ ăn
của cá rô phi O. mossambicus.
Stripped
jack fish cũng được nghiên cứ về ảnh hưởng
của các chế độ ăn với tỉ lệ
bổ sung Spirulina khác nhua và
người ta t́m ra rằng: Spirulina
có ảnh hưởng đến sự tích lũy mỡ
của cá và chỉ nên bổ sung Spirulina
ở mức 5% để duy tŕ sự sinh trưởng b́nh
thường của cá (Watanabe và ctv., 1990).
Boonyarapalin và ctv. (1989)
nghiên cứu về sự thay đổi màu sắc của
cá rô phi đỏ Oreoromic
niloticus với các nguồn bổ sung sắc tố khác
nhau, gồm: Spirulina marigold, Pepal meal, bột đầu
tôm, bột nghệ và thức ăn đối chứng, ông
thấy rằng: tương ứng với các loại
thức ăn trên, màu sắc của cá rô phi thay đổi:
nâu đỏ, vàng lam, lam, cam và hơi cam. Thêm vào đó,
sắc tố của cá chép trở nên đậm hơn khi
cho cá ăn với khẩu phần có bổ sung 10% Spirulina. Nguồn cung cấp
sắc tố khác là Marigold petal chỉ cho sự biến đổi
màu nhẹ (Wutiporn-Phromkunthong, 1984).
Sự biến đổi màu sắc của tôm sú nuôi
cũng được Okada và ctv. nghiên cứu. Với cá
nguồn bổ sung carotenoid khác nhau trong khẩu phần ăn
của tôm từ: b-caroten, Spirulina, Phaffia và krill oil, ông
nhận thấy: Spirulina cho
kết quả tốt nhất về sự gia tăng hàm lượng
caroten trong vỏ của tôm. Đặc biệt, nên cho tôm ăn
với chế độ ăn chiếm 3% Spirulina trong 1 tháng trước khi thu hoạch.
Nghiên
cứu về ảnh hưởng của các nguồn protein khác nhau trong khẩu
phần ăn của tôm thẻ (Penaeus
indicus), Ali (1992) phát hiện: Spirulina
và đậu phộng cho sức tăng trưởng
của tôm tốt hơn có ư nghĩa so với bánh dầu
dừa và gingerly cakes; hiệu quả sử dụng protein
thô và giá trị sinh h5c của Spirulina
cao hơn có ư nghĩa so với đậu phộng. Khi ương
ấu trùng tôm he (Penaeus)
từ gia đoạn Zoea 1đến Mysis 2, Gu và ctv. (1989)
thấy rằng: ấu trùng được cho ăn Spirulina apletensis và S. platensis cộng với bột đậu
nành, đạt kích cỡ 663-757 mm, dài hơn có ư
nghĩa so với thức ăn đối chứng chỉ
dùng bột đậu nành. Tỉ lệ tôm của
nghiệm thức trên đạt 48-53%, cao hơn rất
nhiều so với lơ đối chứng (11%).
2.1.4. Tảo khuê
Trong
lớp tảo khuê, loài Skeletonema costatum từ khi được
phân lập lần đầu tiên bởi Masue (1941) đă được
dùng rộng răi và là thức ăn rất quan trọng
củaâu trùng tôm biển. Hudinaga đă đạt được
thành công đầu tiên trong việc sử dụng tảo
này làm thức ăn cho ấu trùng tôm, tỉ lệ sống
ở giai đoạn Mysis đạt 30% cao hơn rất
nhiều so với các kết quả trước đây,
chỉ đạt 1% (Liao, 1983). Từ kết quả đó,
nhiều loài tảo khuên khác như: Chaetoceros sp., Thlasiosira, Isochrysis,... cũng được
nghiên cứu làm nguồn thức ăn cho ấu trùng tôm. Tùy
theo từng loài tảo và đạc điểm của
chúng mà mỗi loài đều có những ưu điểm
và nhược điểm riêng đối với ấu
trùng tôm.
Trong quá tŕnh phát
triển của lĩnh vực sản xuất tôm giống,
người ta đă chế biến ra nhiều loại
thức ăn nhân tạo để thay thế một
phần hoặc toàn bộ tảo khuê. Tuy nhiên, đến
nay tảo khuê vẫn được xem là thức ăn tươi
sống rất quan trọng của ấu trùng tôm. Le way và
ctv. (1993) đă nghiên cứu về ảnh hưởng
của các nguồn thức ăn tươi sống và nhân
tạo đến sự tăng
trưởng, tỉ lệ sống, hoạt động
của enzym tiêu hóa và thành phần của protein trong cơ
thể của tôm he Nhật Bản, kết quả cho
thấy: ấu trùng Zoea sử dụng tảo Chaetoceros gracilis và thức ăn
nhân tạo có sức tăng trưởng tương đương
nhau, nhưng đến giai đoạn Mysis, nếu cho ăn
thức ăn nhân tạo th́ sẽ dẫn đến
trọng lượng khô và hàm lượng protein trong cơ
thể của PL1 thấp hơn so với ấu trùng cho ăn
hỗn hợp Chaetoceros và
Artemia.
Trong
thí ngiệm so sánh về sự ảnh hưởng của
9 loại thức ăn nhân tạo dùng thay cho tảo khuê
(Chaetoceros) làm thức ăn cho ấu trùng tôm, Utama và ctv.
(1992) nhận thấy: sự giảm mật độ
tảo từ 50.000 xuống c̣n 5.000 tế bào/ml do việc
thay thế tảo bằng thức ăn nhân tạo vẫn
cho kết quả tốt, tỉ lệ sống của
ấu trùng tôm giữa các nghiệm thức vẫn không khác
nhau, nhưng mật đột tảo không thể thấp
hơn 5.000 tế bào/ml. Hơn nữa, Chu (1991) cũng
nhận thấy: ấu trùng tôm Metapenaeus
ensis và Penaeus chinese cho ăn thức ăn nhân
tạo bị chậm lớn và tỉ lệ sống luôn
thấp hơn so với tôm cho ăn Chaetoceros garcilis và Artemia.
Thêm vào đó, Cao và ctv. (1990) khi so sánh về ảnh hưởng
của các loại tảo khác nhau làm thức ăn cho
ấu trùng tôm Penaeus orietalis
phát hiện rằng: ấu trùng Zoea không thể sử
dụng trực tiếp chỉ một loài tảo Tetraselmis seucica hoặc Dunaliella salina được
dùng đơn lẻ cho sự sinh trưởng và phát
triển của chúng. Âúu trùng Zoea chỉ được cho ăn
tảp Phaeaeodactylum tricornutum
không thể phát triển đến giai đoạn Zoea 3.
Hai ḍng của loài tảo Chaetoceros
muelleri là thức ăn tốt cho ấu trùng Zoea và khi
dùng phối hợp chúng với Skeletonema
costatum hoặc Dunaliella salina
sẽ làm tăng tỉ lệ sống của ấu trùng.
Kết
quả thí nghiệm của Chu (1989) cho thấy: chỉ dùng
một loài tảo Chaetoceros gracilis có thể cung cấp
chế độ ăn đầy đủ dinh dưỡng
cho ấu trùng tôm Metapenaeus ensis
từ giai đoạn Zoea đến PL6 với tỉ
lệ sống đạt 35-63%. Việc bổ sung Artemia
không làm cải thiện được tỉ lệ
sống của ấu trùng tôm.
Khi
đánh giá về ảnh hưởng của 3 loại
tảo: Bidulphia sinensis,
thalaassiosira rotula và Skeletonema
costatum đối với sự phát triển và tỉ
lệ sống của 7 nhóm giáp xác mười chân: Pagurus berhardus, Cancer padurus, Hyas
coarctatus, Hyas araneus, Carcinus maenas, Liocarcinus holsatus và Necora puber, Harm thấy
rằng: sự phát triển của ấu trùng dường
như tùy thuộc vào kích cỡ của tảo. Âúu trùng
của chúng lột xác tốt khi cho ăn tảo Bidulphia sinensis, loài lớn
nhất trong các loài tảo thí nghiệm, và chúng lột xác ít
khi cho ăn Skeletonema costatum,
tảo có cỡ nhỏ nhất. Trong sản xuất
giống cua biển, Portunus
trituberculatus, Jo và ctv. (1993) thí nghiệm dùng các loài tảo
Nanochloropsis oculata và Chaetoceros sp. làm thức ăn cho ấu trùng cua, thấy
rằng: tảo Chaetoceros cho
kết quả tốt nhất. Thí nghiệm ương
ấu trùng cua Scylla serrata của
Zainodin (1991) cũng cho biết: ấu trùng cua có cho ăn
bổ sung tảo Skeletonema và
Isochrysis ở giai đoạn
sớm sẽ cho kết quả tốt hơn so với
không cho ăn thêm tảo.
Bên
cạnh đó, tảo khuê c̣n đóng vai tṛ qua trọng trong
nuôi nhuyễn thể. Okauchi (1990) thí nghiệm t́m hiểu
về vai tṛ của tảo đối với spat của
trai (Pintctada fucata) và ông nêu
lên: sức tăng trưởng của spat cho ăn đơn
độc chỉ có tảo Isochrysis
aff. galbana thấp hơn so với spat cho ăn kết
hợp Isochrysis galbana và Chaetoceros garcilis. Laing và ctv. (1990) nghiên cứu
về giá trị dinh dưỡng của tảo khô loài Nannochloris sp. and Tetraselmis seucica so với lô đối
chứng gồm hỗn hợp tảo Chaetoceros calcitral và T-ISO dùng làm thức ăn cho
ấu trùng nghêu Manila (Tapes
philipinarum), ông thấy rằng: ấu trùng nghêu cho ăn
tảo khô có sức tăng trưởng bằng hoặc
cao hơn so với cho ăn dạng tươi sống, nhưng
thấp hơn so với lô đối chứng. Trong thí
nghiệm so sánh về ảnh hưởng của việc
sử dụng tảo đơn lẻ và hổn hợp đến
sức tăng trưởng của spat loài Placopecten magellanicus, Gillis và ctv. nhận thấy:
hổn hợp thức ăn gồm 3 loài tảo Isochrysis galbana, Chaetoceros muelleri và Isochrysis
aff. galbana cho sức tăng
trưởng của spat cao hơn có ư nghĩa so với
hỗn hợp 2 loài.
Zhang
và ctv. đă ương ấu trùng mussel Mytilus edulis với các loại thức ăn khác
nhau, bao gồm: Phaeaeodactylum
tricornutum, Chaetoceros mulleris, Platymonas subcordiformis,
Nannochloris oculatas, Dicrateria zhanjiangensis, men bia, bột đậu
nành, kết quả là: tảo Phaeaeodactylum
có thể sử dụng cho ấu trùng ở các giai đoạn
đầu, sức tăng trưởng của ấu trùng
tương đương với các thức ăn khác nhưng
tỉ lệ sống th́ cao hơn. Ấu trùng có thể
sử dụng Chaetoceros
ở giai đoạn nhỏ, loài tảo Platymonas chỉ thích hợp cho ấu trùng lớn. N. oculata cho ăn không hiệu
quả và bột đậu nành làm chậm quá tŕnh sinh trưởng.
2.2. Luân trùng (Rotifer) |
Cùng
với các loài vi tảo đề cập ở trên, luân
trùng cũng là thức ăn tươi sống rất quan
trọng trong ương nuôi ấu trùng tôm, cá. Luân trùng, Brachionus plicatilis là thức ăn
rất lư tưởng của ấu trùng do chúng có kích thước
nhỏ, bơi chậm và sống lơ lửng trong nước,
có thể nuôi chúng ở mật độ cao, cho năng
suất nuôi cao và có thể được làm giàu với
acid béo và chất kháng sinh ... .(Wendy và ctv., 1991).
Theo
trích dẫn của Wendy (1991) từ kết quả nghiên
cứu của Nagata (1989): Brachionus
plicatilis được sử dụng rất rộng
răi trên thế giới trong ương nuôi ấu trùng
của trên 60 loài cá biển và 18 loài giáp xác. Zheng và ctv. (1994)
nghiên cứu về khả năng tiêu hóa, hấp thụ và
sử dụng các thức ăn khác nhau gồm Brachionus plicatilis, Artemia và Platymonas subcordiformis của tôm he Nhật Bản và
ông đề nghị: Brachionus
plicatilis là một trong những loại thức ăn
thích hợp nhất cho ấu trùng tôm he ở giai đoạn
Mysis 3/ Tỉ lệ sống và sức tăng trưởng
của ấu trùng tôm Penaeus
semisulcatus cho ăn Artemia
hoặc Brachionus plicatilis cũng được Sarmocha
nghiên cứu, ông thấy rằng: ấu trùng tôm cho ăn
luân trùng có thể đạt tỉ lệ sống cao, nhưng
năng lượng lấy vào giảm v́ trọng lượng
khô của luân trùng thấp hơn. Thêm vào đó, Brachionus plicatilis c̣n được
dùng rộng răi làm thức ăn trong ương ấu trùng
tôm Penaeus monodon, P. indicus và P. merguiensis cho kết quả tốt.
Đánh
giá về khả năng thay thế Artemia của luân trùng Brachionus plicatilis trong ương
ấu trùng tôm càng xanh Macrobrachium
rosenbergii, Lovett và ctv.
(1988) nhận thấy việc bổ sung Brachionus plicatilis không làm tăng nhanh quá tŕnh phát
triển của ấu trùng tôm. Âúu trùng cho ăn lượng
Brachionus plicatilis giới
hạn có tỉ lệ sống và tốc độ tăng
trưởng thấp hơn có ư nghĩa so với ấu
trùng cho ăn Artemia. Cho đến nay, hầu hết các
nghiên cứu đều chứng minh rằng: luân trùng , Brachionus plicatilis, là thức ăn
rất quan trọng cho ấu trùng cua, đặc biệt là
ở giai đoạn đầu của ấu trùng.
Robin
và ctv. (1991) đă so sánh về ảnh hưởng của 3
loài luân trùng được làm giàu với microcapsules,
micro-particles và lipid emulsion dùng làm thức ăn cho ấu
trùng Turbot, ông cho biết: luân trùng được làm giàu
với lipid có chứa hàm lượng acid béo chưa no n-3
cao hơn gấp đôi so với các cách làm giàu khác. Tuy nhiên,
tốc độ tăng trưởng và tỉ lệ
sống của ấu trùng cho ăn loại luân trùng này dường
như thấp hơn so với các loại khác. microcapsules,
micro-particles cung cấp những chất dinh dưỡng
khác, ngoài lipid, hiệu quả hơn. Cũng với thí
nghiệm ương ấu trùng Turbot (Opstad và ctv, 1991) quan
sát thấy tốc độ tăng trưởng và tỉ
lệ sống của ấu trùng cho ăn luân trùng và Artemia đă
được làm giàu với 7 hỗn hợp khác nhau th́
không khác nhau có ư nghĩa, chỉ trừ trường
hợp thức ăn được làm giàu với
trứng cá tuyết được xem là tốt nhất.
Khi
ương ấu trùng cá đối bằng thức ăn tươi sống luân trùng
được cho ăn men bánh ḿ và/hoặc Nannochloris oculatas, Tamaru (1993) nhận thấy:
tốc độ tăng trưởng và tỉ lệ
sống của ấu trùng sử dụng luân trùng được
nuôi bằng men bánh ḿ thấp hơn so với ấu trùng
sử dụng luân trùng được cho ăn bằng men
và Nannochloris oculatas.
Nghiên cứu về
sức tăng trưởng và năng suất của cá măng
bột (Chanos chanos) được cho ăn luân trùng
dạng tươi sống và đông lạnh, Villegas (1991)
thấy rằng: không có sự khác biệt có ư nghĩa
giữa hai dạng thức ăn này. Cũng theo kết
quả nghiên cứu ương cá măng năm 1990 của
tác giả trên, ấu trùng cá măng ăn luân trùng được nuôi với 3
loại tảo khác nhau, Tetraselmis
tetrahele, Isochrysis galbana và Chlorella
biển, có tốc độ tăng trưởng khác nhau có
ư nghĩa giữa các nghiệm thức.
Cruz và ctv. (1989) báo cáo:
cá bột rô phi cho ăn kết hợp thức ăn
chế biến với luân trùng đạt được
trọng lượng cuối, tốc độ tăng trưởng
hàng ngày và năng suất cao hơn có ư nghĩa so với cá
bột chỉ cho ăn một loại thức ăn,
hoặc luân trùng hoặc thức ăn chế biến.
Việc sử dụng luân trùng làm thức ăn cho cá
bột mặc dù không làm tăng tỉ lệ sống
của cá, nhưng nó lại làm tăng tốc độ tăng
trưởng và năng suất cá bột.
2.3. Artemia |
Artemia
làm thức ăn cho tôm biển: Artemia là thức ăn
rất quan trọng trong ương nuôi ấu trùng và
hậu ấu trùng tôm biển. Artemia bắt đầu cho ăn
khi ấu trùng đạt đến giai đoaün Mysis1 hay
ngay cả Zoae2-3. Nhiều
nghiên cứu đă cho thấy rằng, thành phần dinh dưỡng
của những nguồn
Artemia khác nhau và ngay
cả ở những đợt sản xuất khác nhau là
khác nhau. Amat nghiên cứu ảnh hưởng của các
nguồn Artemia khác nhau lên ấu trùng một số loài tôm
biển đă cho thấy rằng kết quả tốt
nhất ở tôm ăn Artemia có thành phần HUFA cao nhất.
Việc
sản xuất giống tôm càng xanh cũng phụ thuộc
căn bản vào nguồn Artemia.
Không như tôm biển, ấu tôm càng xanh có thể
bắt đầu cho ăn từ giai đoạn đầu
với Artemia mơiï nở. Tuy nhiên, cũng giống như
tôm biển, trong ương nuôi ấu trùng tôm càng xanh, ngoài Artremia
cần bổ sung thêm các nguồn thức ăn nhân tạo
khác để tăng cường dinh dưỡng và nâng cao
tỷ lệ sống của ấu trùng.
Đối
vơi cá biển, trong sản xuất giống, Artemia thường
được bắt đầu cho ăn một tuần
sau khi cho ăn bằng Rotifer với kích cỡ nhỏ. Lượng
Artemia cần cho sản xuất giống cá thường
tốn hao nhiều hơn so với sản xuất
giống tôm biển và tôm càng xanh.
Kết quả sản xuất giống cá biển được
nâng cao rất có ư nghĩa khi Artemia được làm giàu
hóa HUFA.
Đối
với cá nước ngọt, rất nhiều loài cá được
ương nuôi trực tiếp ở ao sau khi hết giai
doạn noăng hoàn. Ấu trùng cá sẽ sử dụng
nguồn thức ăn tự nhiên trong ao như tảo, động
vật phù du được gây nuôi bằng cách bón phân. Tuy
nhiên, cũng có nhiều loài cá cần được ương
nuôi trên bể như cá Basa, cá tra, cá lăng ... và v́ thế
Artemia là thức ăn rất quan trọng cho sản
xuất giống những loài cá này.
Ngoài
ra, trong nghề nuôi nuôi cá cảnh, cả ấu trùng Artemia
và Artemia trưởng thành đều được sử
dụng cho mục đích sản xuất giống hay nuôi.
Mặc
dù Artemia có giá trị dinh dưỡng rất cao và có một
số loài có thể dựa vào nguồn thức ăn là
Atermia đơn độc, song, trong sản xuất
giống, việc bổ sung các nguồn thức ăn nhân
tạo hay làm giàu hoá Artemia là điều rất cần
thiết và rất phổ biến.