CHƯƠNG 1 : KHÁI QUÁT VĂN HỌC VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1930 - 1945
A. BỐI CẢNH LỊCH SỬ XÃ HỘI VIỆT NAM VÀ NHỮNG ÐẶC ÐIỂM NỔI BẬT CỦA VĂN HỌC VIỆT NAM GIAI ÐOẠN 1930-1945 |
I. BỐI CẢNH LỊCH SỬ |
1.
Một giai đoạn lịch sử tuy chỉ 15 năm , nhưng trải qua bao biến
cố, gồm bao sự kiện quan trọng, tác độüng mạnh mẽ đến đời
sống vật chất và tinh thần của con người .
1.1:
Sự ra đời của Ðảng Cộng Sản Ðông Dương 03-02-1930:
Sự
ra đời của Ðảng cộng sản đã tạo ra một bước ngoặt quyết
định cho lịch sử cách mạng Việt Nam.
Từ
đây, đã chấm dứt tấm bi kịch của những người yêu nước mà
không tìm ra con đường cứu nước đúng đắn.
Do
vai trò độc quyền cách mạng của Ðảng, do đường lối chiến lược
sách lược vững vàng sáng suốt của Ðảng đã đoàn kết và phát
huy được mạnh mẽ tính tích cực, tính sáng tạo của quần chúng
nhất là công nông.
Thực
tế lịch sử đã chứng minh điều đó:
Ngay sau khi Ðảng ra đời 3-2-1930 cao trào Xô Viết
1930-1931.
Chính quyền cách mạng được thành lập, bước đầu
thực hiện những quyền tự do dân chủ cho nhân dân.
Mặt trận dân chủ Ðông Dương được thành lập năm
1936-1939.
Tháng 6-1940 Pháp đầu hàng Ðức. Tháng 91940 chúng
mở cửa Ðông Dương cho Nhật vào. Hai tên đế quốc tàn bạo cùng
một lúc đàn áp bóc lột nhân dân ta làm cho đời sống nhân dân
kiệt quệ, dẫn đến nạn đói khủng khiếp 1945.
Nhưng chính thời kì này phong trào cách mạng lên
cao hơn bao giờ hết. Dưới sự lãnh đạo của Ðảng tháng 9-1940,
nhân dân Bắc Sơn nổi dậy. Tháng 11-1940 khởi nghĩa Nam Kì bùng
nổ. Tháng 5-1941, Mặt trận Việt minh thành lập, một cao trào
giải phóng dân tộc bùng lên, cả nước sục sôi chuẩn bị vũ
trang khởi nghĩa. Tháng 8-1945, cách mạng thành công, chấm dứt
chế độ thuộc địa Pháp, Nhật, thành lập nước Việt nam dân
chủ cộng hòa.
1.2:
Khủng hoảng kinh tế 1929-1933:
Thực
dân Pháp ra sức bòn vét bóc lột dân thuộc địa để bù đắp
cho những thiệt hại của chúng và dốc vào chiến tranh: tăng sưu,
thuế, bắt phu, bắt lính, mở công thải, lạc quyên, lạm phát
giấy bạc .v.v...
Ðông
Dương thành một thị trường tiêu thụ hàng hóa thừa ế của chính
quốc, kể cả lúa mì năm 1933, Ðông Dương phải bỏ ra 1500 triệu
Frăng để mua 50 vạn tấn lúa mì ế của Pháp. (báo Ðàn bà
mới-1934).
1.3:
Cách mạng Tư sản thất bại, ngày 09-02-1930:
Giai
cấp tư sản Việt Nam phát triển khó khăn yếu đuối. Giai cấp này
một mặt mâu thuẫn với đế quốc Phong Kiến, mặt khác lại
phụ thuộc vào chúng.
Ðịa
vị kinh tế non yếu, mỏng manh khiến tư sản dân tộc mất hết
khả năng chiến đấu, nếu không có một lực lượng nào thực
sự lãnh đạo thì họ chỉ còn có một thái độ là thỏa hiệp
với đế quốc (Lê Duẫn-Một vài đặc điểm của cách mạng
Việt Nam-trang 31).
Giai
cấp tư sản Việt Nam chủ trương chính trị trước sau là chủ
nghĩa cải lương
Tư
sản dân tộc Việt Nam phần lớn là do địa chủ chuyển thành
hoặc dính liền với địa chủ thành một thứ tư sản địa chủ
khiến cho thái độ chống Phong kiến của nó cũng không dứt khoát
Giai
cấp tư sản Việt Nam làm cuộc bạo động Yên Bái ngày 9-2-1930 nhưng
thất bại, tầng lớp tiểu tư sản trí thức hoang mang tới cao độ,
họ cùng với giai cấp tư sản tìm đường thỏa hiệp với thực
dân, hoặc chỉ còn thực hiện nhiệm vụ giải phóng dân tộc
bằng con đường văn chương.
1.4:
Cách mạng Vô Sản khi cao trào lúc thoái trào:
Cao
trào cách mạng 1930-1931 mà đỉnh cao nhất là phong trào Xô Viết
Nghệ Tĩnh. Do những điều kiện khách quan, chủ quan chưa đầy đủ,
phong trào bị thất bại.
Bọn
đế quốc một mặt điên cuồng khủng bố, dùng cả máy bay ném
bom xuống các đoàn biểu tình, mặt khác ra sức xuyên tạc chủ
nghĩa cộng sản, nói xấu và vu khống Liên Xô hòng chia rẽ quần
chúng với Ðảng.
Từ
cuối năm 1931, cách mạng Việt Nam bước vào thời kì thoái trào.
Từ
cuối năm 1932, phong trào lại dần dần hồi phục.
Cuối
năm 1933, bóng đen chiến tranh phát xít đe dọa nhân loại. Dưới
sự lãnh đạo của quốc tế cộng sản, một phong trào rộng rãi
chống phát xít và chiến tranh lan rộng trên thế giới. Ở Pháp,
Mặt trận nhân dân thành lập và dành được thắng lợi trong kì
tuyển cử tháng 5-1936. Lợi dụng thời cơ đó, dưới sự lãnh đạo
của Ðảng, mặt trận thống nhất Ðông Dương ra đời, tạo nên
một phong trào dân chủ sâu rộng chưa từng thấy trong lịch sử dân
tộc bao gồm công, nông, dân nghèo, tiểu thương, tiểu chủ, học
sinh, viên chức v.v... và một số tư sản.
Bọn
đế quốc phải nhượng bộ. Hàng nghìn tù chính trị được trả
lại tự do, luật lao động được ban hành, báo chí tiến bộ được
công khai xuất bản.
Tháng
9-1939 chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Mặt trận dân chủ
tan vỡ. Lợi dụng tình thế đó, bọn thống trị Ðông Dương
thủ tiêu mọi quyền tự do dân chủ mà nhân dân ta vừa giành được.
Ðảng phải rút vào bí mật. Thời kì này phong trào cách mạng lên
cao, một phong trào giải phóng dân tộc bùng lên, cả nước sục sôi
chuẩn bị vũ trang khởi nghĩa. Tháng 8-1945 dưới sự lãnh đạo
của Ðảng cách mạng Việt Nam dành được thắng lợi, thành lập
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
2.
Một xã hội rối ren, đen tối về
kinh tế cũng như về kiến trúc thượng tầng.
2.1:
Nền kinh tê kiệt quệ dưới ách thực dân phong kiến:
Chế
độ sưu thuế, chế độ bắt phu bắt lính của thực dân Pháp và
chế độ Phong kiến.
Xã
hội Việt Nam là một địa ngục, khắp nơi nạn đói hoành hành,
bọn đầu trâu mặt ngựa tác oai tác quái, người chết hàng
loạt và khủng khiếp nhất là nạn đói vào mùa xuân năm 1945, hai
triệu người bị chết đói.
2.2:
Những thế lực thống trị mâu thuẫn nhau:
Mâu
thuẫn giữa thực dân phong kiến.
Mâu
thuẫn giữa phong kiến với tư sản.
Mâu
thuẫn giữa tư sản với thực dân.
2.3:
Những lực lượng đối kháng giao tranh, có những chiến tuyến rõ
rệt như cách mạng, phản cách mạng; có người yêu nước nhưng
hoang mang, có người lơ láo, bàng quang, lẩn trốn...
3.
Chính sách kinh tế, chính trị, văn hóa vô cùng xảo quyệt của
thực dân ngày càng nhào nặn xã hội Việt Nam vào cái khuôn khổ
có lợi cho chúng.
Thực
dân Pháp tiếp tục khai thác nền kinh tế nước ta.
Thực
dân Pháp tiếp tục chính sách ngu dân, số người mù chữ chiếm
đến 90% dân số.
Chế
độ kiểm duyệt gắt gao, cấm đoán tất cả sách báo tiến bộ
trong và ngoài nước.
Thực
dân Pháp đưa vào nước ta đủ thứ rác rưởi của văn hóa Tư
Sản phản động phương Tây, cùng với cặn bã phong kiến, chúng
gọi là kết hợp Văn minh Âu Mỹ với Quốc hồn quốc túy An Nam.
4.
Một ý thức mới, một tâm lí mới lan tràn.
4.1:
Ý thức tâm lí tư sản và tiểu tư sản:
Trí
thức, thành thị âu hóa, chịu ảnh hưởng của những sinh hoạt
mới, của giai cấp mới và của văn hóa tư sản phương Tây.
Lối
sống hưởng lạc phát triển ở thành thị: ăn mặc theo mốt
thời trang, lối sống tài hoa son trẻ, vui vẻ trẻ trung, dạy họ
cách hưởng thụ cuộc đời một cách hiện đại và thú vị
nhất.
Báo
chí tư sản, tiểu tư sản nhất là tờ báo Phong hóa, Ngày nay thường
huấn luyện phụ nữ cách cải tiến y phục, huấn luyện thanh niên
cách chinh phục gái đẹp.
4.2:
Giai cấp tư sản Việt Nam thất bại về mặt kinh tế và chính
trị hoang mang, dao động, xoay ra đấu trang về mặt văn hóa chống
giáo lí phong kiến để đòi tự do cá nhân:
Chống
giáo lí phong kiến như cảnh mẹ chồng nàng dâu, mẹ ghẻ con
chồng, chế độ đa thê v.v...
Ðề
cao hạnh phúc cá nhân, đề cao tình yêu lứa đôi.
II.
QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN VÀ NHỮNG ÐẶC ÐIỂM NỔI BẬT |
Quá
trình phát triển văn học trong 15 năm: có 2 bộ phận (bộ phận văn
học vô sản và bộ phận văn học tư sản, tiểu tư sản nằm
trong phạm trù ý thức hệ tư sản). Có 3 thời kỳ:
1.
Thời kỳ 1930-1935: Mở đầu là sáng tác thơ văn gắn liền với
cao trào
cách mạng 1930-1931 mà đỉnh cao nhất là Xô Viết Ngệ Tỉnh.
Bộ
phận văn học tư sản, tiểu tư sản thời kỳ này là văn học lãng
mạn: Tiểu thuyết Tự lực văn đoàn và thơ mới.
Xu
hướng văn học phê phán có từ trước 1930 đến thời kỳ này phát
triển hơn và xác định rõ ràng hơn về phương pháp thể tài.
2.
Thời kỳ 1936-1939
2.1.
Văn học vô sản khắc họa thành công hình tượng người chiến sĩ
cộng sản say mê lí tưởng, mang một tinh thần nhân đạo mới
mẻ:
Thể
loại phóng sự, ký sự phát triển.
Thơ
ca cách mạng phát triển. Một loạt nhà thơ cách mạng đã xuất
hiện: sóng Hồng, Lê Ðức Thọ, Xuân Thủy, Tố Hữu.
Văn
học cách mạng thời kỳ này đánh dấu một bước tiến triển
mới mẻ của văn học vô sản theo hướng hiện đại hóa.
2.2:-
Văn học hiện thực phê phán phát triển mạnh mẽ và đạt được
nhiều thành tựu xuất sắc:
Vấn
đề nông dân, nông thôn được đặt ra trong tác phẩm hiện thực
phê phán Bước đường cùng của Nguyễn Công Hoan, Vỡ đê của Vũ
Trọng Phụng, Tắt đèn của Ngô Tất Tố
Vấn
đề phong kiến thực dân được nêu lên một cách gay gắt trong các
tác phẩm hiện thực phê phán: Số đỏ, Giông tố của Vũ Trọng
Phụng, Tắt đèn của Ngô Tất Tố...
Tác
phẩm hiện thực phê phán không dừng lại ở truyện ngắn, phóng
sự mà phát triển mạnh mẽ thể tài tiểu thuyết. Ðây chính là
một thành công lớn của văn học hiện thực phê phán thời kì này
2.3:-
Văn học lãng mạn tư sản, tiểu tư sản vẫn tiếp tục phát
triển song nó phân hóa theo các hướng khác nhau.
Bên
cạnh chủ đề cũ chống lễ giáo phong kiến và đề cao hạnh phúc
cá nhân, Tự lực văn đoàn còn nêu chủ đề mới: chủ trương
cải cách bộ mặt nông thôn và cải thiện đời sống
cho nông dân Gia đình của Khái Hưng, Con đường sáng của Hoàng
Ðạo.
Tiểu
thuyết Tự lực văn đoàn đề cập tới hình tượng người
chiến sĩ Ðoạn tuyệt, Ðôi bạn của nhà văn Nhất Linh
Thơ
mới vẫn tiếp tục trên đà phát triển. Cái Tôi vẫn được khai
thác đến phút chót. Thời kì này, Xuân Diệu nổi lên như một
hiện tượng văn học. Cái Tôi của các nhà thơ mới càng đi sâu
vào thế giới yêu đương thì càng cô đơn lạc lõng và càng sợ
sệt Chiếc đảo hồn tôi rợn bốn bề (Nguyệt Cầm-Xuân Diệu).
3.
Thời kỳ 1939-1945:
3.1
Văn học vô sản rút vào bí mật nhưng vẫn phát triển mạnh mẽ.
Thơ ca cách mạng trong tù và thơ ca cách mạng ngoài nhà tù phát
triển.
Văn học vô sản nói nhiều
tới tương lai, một tương lai rực rỡ đang tiến gần. Thơ Tố
Hữu trưởng thành nhanh chóng như tập Từ ấy. Tập Nhật kí trong
tù Hồ Chí Minh cũng ra đời trong thời kì này.
Thời kì này thơ tuyên truyền kết hợp với thơ
trữ tình cách mạng càng thấm thía, sâu sắc hơn.
Hàng loạt bài chính luận của đồng chí Trường
Chinh xuất hiện trên các báo chí của Ðảng vào thời kì này cũng
có nhiều giá trị văn học.
Văn học vô sản trong những năm tiền khởi nghĩa
đã góp phần quan trọng vào cuộc vận động cách mạng của Ðảng,
đập tan chế độ thuộc địa, giành thắng lợi trong những ngày
tháng 8 lịch sử 1945.
3.2 Văn học hiện thực phê phán
có sự phân hóa:
Có
nhà văn thì chết (Vũ Trọng Phụng);
Có
nhà văn không viết tiểu thuyết nữa chuyển sang khảo cứu dịch
thuật như Ngô Tất Tố.
Có
nhà văn mắc phải sai lầm như Nguyễn Công Hoan viết tiểu thuyết
Thanh Ðạm.
Một
thế hệ nhà văn hiện thực mới ra đời:Nam Cao, Nguyễn Tuân,
Mạnh Phú Tư, Nguyễn Ðình Lạp, Bùi Hiển, ...
Nhà
văn hiện thực vẫn tiếp tục miêu tả cuộc sống tăm tối của
người nông dân Chí Phèo, lão Hạc của Nam Cao; Sống nhờ của
Mạnh Phú Tư. Cuộc sống bế tắc mòn mỏi của người trí thức
tiểu tư sản cũng được các nhà hiện thực đề cập một cách
sâu sắc Sống mòn, Ðời thừa, Trăng sáng của Nam Cao.
Các
nhà văn nêu lên mâu thuẫn gay gắt giữa giai cấp thống trị với
tầng lớp nhân dân lao động.
3.3
Văn học lãng mạn: cái Tôi bế tắc, cực đoan, có sự phân
hóa.
_
Tự lực văn đoàn:
Mang
một tâm trạng. Nhất Linh, Khái Hưng đưa ra một chủ nghĩa vô luân,
đó là tác phẩm Bướm trắng của Nhất Linh và tác phẩm Thanh đức
của Khái Hưng.
Thạch
Lam miêu tả những sinh hoạt nâng lên thành nghệ thuật như nghệ
thuật ăn tết, Hà Nội 36 phố phường.
Thời
kì này Thế Lữ-thành viên của Tự lực văn đoàn đi vào truyện
trinh
thám đường rừng, truyện ma quỷ như truyện Cái đầu lâu.
Thời
kì này Nguyễn Tuân là cây bút tiêu biểu cho trào lưu lãng mạn tư
sản, tiểu tư sản trong văn xuôi. Cái ngông của Nguyễn Tuân
xuất hiện, đó là một thứ ngông lịch lãm tài hoa. Ở Nguyễn Tuân
còn xuất hiện chủ nghĩa xê dịch, đó cũng là thứ xê dịch chân
thành và những rung cảm rất tinh tế.
_ Thơ mới:
Khủng
hoảng nghiêm trọng. Ðủ các thứ biểu hiện hỗn loạn. Thơ điên,
thơ loạn, thơ say càng phát triển mạnh. Ðủ các thứ đạo: đạo
của Giatô, của Thích Ca, của Trang Tử. Tất cả đều là những hình
thức bế tắc cùng đường của chủ nghĩa cá nhân
Thời kì này nhóm Xuân thu nhã tập xuất hiện. Người
ta làm thơ bằng một thứ ngôn ngữ đối lập với tiếng nói
của đồng loại, với ý thức kiên quyết không cho ai hiểu được
mình:
Mi thơm chanh trĩu nặng buồn da
Rượu tóc loang tháng đậm mùa ngà
B. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM NỔI BẬT |
1.
Ðổi mới rõ rệt theo khuynh hướng hiện đại hóa.
Phá bỏ hệ thống ước lệ của văn học cổ điển.
Khuynh hướng hiện đại hóa đã chi phối việc chọn lựa đề tài,
chủ đề, việc xây dựng hình tượng, cốt truyện, thi pháp,
việc sử dụng các hình thức tu từ, mỹ từ và ngôn ngữ văn
học nói chung.
Văn học được lái dần đúng hướng trên tinh
thần dân tộc, khoa học, đại chúng...
Văn xuôi và tiểu thuyết được nâng lên địa vị
quan trọng nhất trong đời sống văn học và thật sự phát triển
mạnh làm thay đổi diện mạo văn học.
Xuất hiện công chúng rộng rãi
đông đảo. Công chúng có nhu
cầu thẩm mỹ mới là một điều kiện thúc đẩy văn học phát
triển.
Sự phát triển phong phú về thể loại:
Tiểu
thuyết
Truyện
ngắn
Bút
kí
Phóng
sự
Kịch
Nhiều
xu hướng, trào lưu văn học phát triển mạnh. Tình hình đó đưa
đến sự phát triển của ngành phê bình, lí luận và nghiên cứu.
2.
Hình thành và phát triển với hai bộ phận phân biệt rõ rệt về
ý thức hệ: văn học tư sản, tiểu tư sản và văn học vô sản.
Văn học cách mạng vô sản: tinh thần vững chắc và
đoàn kết của tinh thần vô sản, của tính đảng cộng sản.
Ðặc điểm bao quát của văn học lãng mạn là tính
chất phức tạp của nó.
Văn học hiện thực phê phán và tiếng nói của
tầng lớp tiểu tư sản nghèo, các nhà văn hiện thực có điều
kiện gần gũi với đời sống nhân dân.
C. SỰ PHÁT TRIỂN NHANH CHÓNG CỦA CÁC XU HƯỚNG, PHƯƠNG PHÁP, PHONG CÁCH SÁNG TÁC CỦA THỂ LOẠI VÀ NGÔN NGỮ VĂN HỌC |
1.
Chuyển biến mau lẹ của các xu hướng: tiểu thuyết Tự lực văn
đoàn- văn học hiện thực phê phán-văn học cách mạng.
2.
Sự trưởng thành và phát triển của nhiều phương pháp sáng tác.
Phương
pháp sáng tác lãng mạn chủ nghĩa.
Phương
pháp sáng tác hiện thực phê phán.
Phương
pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa.
3.
Phát triển về mặt thể loại:
Tiểu
thuyết.
Truyện
ngắn.
Phóng
sự.
Kịch.
D. NGÔN NGỮ VĂN HỌC THỜI KỲ NÀY CŨNG ĐƯỢC ĐỔI MỚI VÀ PHÁT TRIỂN MẠNH MẼ |
Lối
văn biền ngẫu và chữ Hán trở nên lạc hậu.
Ngôn
ngữ văn xuôi trở nên sáng sủa, giản dị hơn.
Tóm lại, lịch sử phát triển
15 năm của xã hội cũng là sự phát triển của văn học 1930-
1945. Với hai bộ phận và ba dòng văn học, nền văn học Việt Nam
có sự chuyển biến mau chóng. Tuy nhiên trong quá trình phát triển
cũng có lúc nhanh, lúc chậm, nhưng trong hoàn cảnh nào văn học
giai đoạn 1930- 1945 cũng là tiền đề phát triển cho nền văn
học Việt Nam sau này.