Chương 5
TRUYỆN
THƠ NÔM
Chương 5
TRUYỆN
THƠ NÔM
I.MỘT SỐ VẤN CHUNG VỀ
TRUYỆN THƠ NÔM
-Truyện Nôm là một bộ phận văn học
khá độc đáo và có giá trị của nền văn
học phong kiến Việt Nam. Đây là một loại h́nh
tự sự có khả năng phản ánh hiện thực
với một phạm vi tương đối rộng, v́
vậy có người gọi truyện thơ Nôm là trung
thiên tiểu thuyết (tiểu thuyết vừa). Bộ
phận văn học này được sáng tác bằng
chữ Nôm và phần lớn được viết theo
thể lục bát- thể thơ quen thuộc nhất
với quần chúng. Một số ít khác viết theo
thể thất ngôn bát cú (thơ Đường luật), tác
phẩm Lâm Tuyền kỳ ngộ thuộc loại này.
Bộ phận văn học này có một số lượng
khá lớn và có vị trí
rất quan trọng trong đời sống tinh thần
của quần chúng lao động.
-Giá trị của truyện Nôm đă được khẳng định qua thời gian tồn tại của nó và ḷng hâm mộ của quần chúng ở nhiều thế hệ. Song hiện tại khi nghiên cứu bộ phận văn học này chúng ta sẽ gặp một số vấn đề khó giải quyết như: Nguồn gốc, sự phát triển, thời điểm sáng tác. Cố nhiên các nhà nghiên cứu bước đầu cũng đă co đượcï những ư kiến về các vấn đề trên, tuy mới dừng lại ở mức độ của những giả thiết.
1.Vấn đề nguồn gốc và sự phát triển của truyện Nôm. |
-H́nh thức đầu tiên của các truyện Nôm là
những bài hát tự sự của các nghệ nhân
hát rong (hiện tượng hát rong xuất hiện ở nước
ta từ thế kỷ nào th́ chưa xác định
được, chỉ biết rằng khi có các đô
thị th́ đă có nhiều người sống bằng
nghề này, nhất là sau thế kỷ XV).
Những bài hát tự sự này phần lớn
đưọc các nghệ nhân sáng tác hoặc dựa trên
cơ sở của truyện cổ dân gian, hoặc rút ra
từ một truyện Nôm đă có trước. Càng
về sau, những bài hát này càng được bồi
bổ thêm về mặt nội dung cũng như nghệ
thuật và đến một lúc nào đố bài hát
đă được ghi vào trong sách, từ đó chính
thức trở thành một truyện Nôm (lọai này có
thể kể đến truyện: Trương Chi, Tấm
Cám).
-Nơi thứ hai sản sinh ra các truyện Nôm là các
nhà chùa của đạo phật. Để tuyên truyền
đạo phật cho các tín đồ mà phần đông
là không biết chữ, một số nhà sư có học
đă nghĩ ra cách diễn Nôm một số sự tích
trong kinh phật, h́nh thức này ngày càng phát triển và
nhiều truyện Nôm đă xuất hiện theo con
đường này.
Trên đây là nguồn gốc ra đời của
truyện Nôm, trong hai h́nh thức trên cái nào có trước,
cái nào có sau chúng ta vẫn chưa xác định
được.
-Các h́nh thái của truyện Nôm.
+Truyện Nôm ra đời và tồn tại với h́nh
thái đầu tiên là truyện Nôm truyền khẩu. Sau
một thời gian dài, khi phong trào truyện Nôm truyền
khẩu phát triển mạnh mẽ th́ các nho sĩ b́nh dân
và bác học đă mạnh dạn sử dụng loại
h́nh văn học này để sáng tác, hoặc ghi chép
lại những truyện Nôm đă có. Từ đó
truyện Nôm viết được xuất hiện. Cũng
như mọi h́nh thái sáng tác, truyện Nôm không phải là
đă kế tiếp nhau một cách dứt khoát mà mỗi
cái khi xuất hiện đều tồn tại song song
với những cái xuất hiện trước hoặc sau
nó.
+Cho đến nay chúng ta vẫn chưa xác định
được truyện Nôm viết xuất hiện vào
thời gian nào và sự phát triển của nó trong
lịch sử văn học. Bởi v́ cho đến nay
hầu hết các truyện Nôm c̣n lại đều không
có tên tác giả và thời điểm sáng tác.
+Các nhà nghiên cứu đă căn cứ vào mối quan hệ giữa nội dung tác phẩm và hiện thực đời sống xă hội, căn cứ vào tài liệu cấm đoán của giai cấp thống trị, căn cứ vào h́nh thức ngôn từ và thể loại mà đi đến một nhận định sơ bộ về sự phát triển của bộ phận văn học này như sau: Chính giai đoạn lịch sử từ thế kỷ XV đến thế kỷ XIX là giai đoạn bộ phận văn học này ra đời và phát triển, thời kỳ cực thịnh của nó là thế kỷ XVIII đến thế kỷ XIX. Phần lớn các truyện Nôm lưu hành hiện nay cũng ra đời trong hai thế kỷ này. Sang đầu thế kỷ XX việc sáng tác truyện Nôm dần dần chấm dứt v́ thể loại văn xuôi mới ra đời đă đủ sức thay thế nó.
2.Vấn
đề khuyết danh. |
-Hiện nay chúng ta c̣n một số lượng khá
lớn truyện Nôm không c̣n tên tác giả và thời
điểm sáng tác, người ta gọi bộ phận văn
học này là truyện Nôm
khuyết danh.Nguyên nhân của hiện tượng văn
học này? Có ba nguyên nhân.
+Do tâm lư coi thường các sáng tácbằng chữ Nôm
của các nhà nho. Tâm lư này đă ảnh hưởng
đến nhiều tầng lớp khác nhau trong xă hội
kể cả những người sáng tác. Do bị coi thường
(bị coi là loại văn học nhảm nhí, nôm na, mách
qué) cho nên khi các sáng tác bằng chữ Nôm ra đời tác
giả của chúng không
được chú ư đến và dần dần bị quên
lăng.
+Do sự cấm đoán, thái độ thù địch
của giai cấp thống trị. Để tránh búa ŕu
của bọn chúng, nhiều tác giả đă không dám lưu
danh trong sáng tác. Đây là một nguyên nhân quan trọng.
+Nguyên nhân văn học:Trước khi được ghi chép bằng chữ quốc ngữ, truyện Nôm được lưu hành trong nhân dân chủ yếu là bằng miệng. Qua một thời gian dài lưu hành từ người này sang người khác, từ vùng này sang vùng khác nhiều truyện Nôm dần dần mất tên tác giả ban đầu và trở thành tác phẩm khuyết danh, có truyện đă trở nên rất gần gũi với các truyện cổ dân gian.
3.Vấn
đề phân loại. |
Truyện Nôm có một số lượng khá lớn
hơn nữa lại do nhiều tầng lớp khác nhau sáng
tác cho nên nội dung cũng như nghệ thuật của
nó đều không thuần nhất. Để tiện cho
việc nghiên cứu người ta đă tiến hành phân
loại bộ phận văn học này. Dựa theo
những căn cứ khác nhau mà có những cách phân
loại khác nhau. Có thể phân loại theo ba cách sau:
1.3.1.Dựa
vào nguồn gốc đề tài có ba loại.
-Loại lấy đề tài từ các truyện
cổ dân gian. Ví dụ: Trương Chi, Tấm Cám,
Thạch Sanh.
-Loại lấy đề tài, cốt truyện từ
văn học Trung Quốc. Ví dụ: Truyện Hoa Tiên,
Nhị độ mai, Phan Trần.
-Loại lấy đề tài, cốt truyện từ
những sáng tác chữ Hán hoặc những sự tích có
thật ở Việt Nam. Ví dụ: Tống Trân-Cúc Hoa, Bích
Câu kỳ ngộ.
1.3.2.Dựa
vào nội dung và h́nh thức, có hai loại.
-Truyện Nôm b́nh dân: Loại này do các nho sĩ b́nh
dân sáng tác.
+Về
nội dung loại truyện này mang đậm tính chất
quần chúng.
+Về
nghệ thuật: mộc mạc , giản dị.
+Ví
dụ: Tống Trân- Cúc Hoa, Phạm Công-Cúc Hoa, Phạm
Tải-Ngọc Hoa.
-Truyện Nôm bác học: Lọai này do các nhà nho
thuộc tầng lớp trên sáng tác.
+Về nội dung, tư tưởng có phần
phức tạp hơn truyện Nôm b́nh dân.
+Về nghệ thuật điêu luyện hơn
truyện Nôm b́nh dân.
+Ví dụ: Phan Trần, Nhị độ mai.
1.3.3.Dựa
vào mối quan hệ với tác giả: phân làm hai
loại.
-Truyện Nôm hữu danh (c̣n tên tác giả, ví dụ
truyện Hoa Tiên của Nguyễn Huy Tự), loại này c̣n
lại không nhiều. Truyện Nôm hưũ danh phần
lớn là truyện Nôm bác học.
-Truyện Nôm khuyết danh (không c̣n tên tác giả).
Phần lớn các truyện Nôm khuyết danh là truyện Nôm
b́nh dân.
.Cả ba h́nh thức phân loại trên chỉ có tính
chất tương đối, trong đó h́nh thức
thức thứ hai là h́nh thức phân loại có giá
trị khoa học.
II.ĐẶC ĐIỂM NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT CỦA TRUYỆN THƠ NÔM B̀NH DÂN.
1.Nội
dung. |
Vấn đề trung tâm đặt ra trong hầu
hết các truyện Nôm b́nh dân là cuộc đấu tranh
của những người bị áp bức chống cường
quyền bạo chúa bảo vệ t́nh yêu thủy chung,
bảo vệ hạnh phúc gia đ́nh, bảo vệ nhân
phẩm. Qua cuộc đấu tranh nhiều khi không cân
sức ấy, tác giả truyện Nôm b́nh dân có ư
thức làm nổi bật hai vấn đề cơ
bản sau:
-Tố cáo bộ mặt thối nát, tàn bạo
của xă hội phong kiến trên bước đường
suy vong của nó.
-Đề cao phẩm chất tốt đẹp của
quần chúng lao động.
-Ngoài ra các tác giả truyện Nôm b́nh dân cũng thường
đưa ra những cách giải quyết tích cực,
tiến bộ các vấn đề xă hội.
Ba vấn đề này được coi là ba đặc
điểm chính về nội dung của truyện Nôm b́nh
dân. Ba đặc điểm này cũng đă nói lên
rằng truyện Nôm b́nh dân có một nội dung gần gũi
với quan niệm đạo đức, thẩm mĩ
của quần chúng lao động.
2.1.1.Tố
cáo bộ mặt cực kỳ thối nát, tàn bạo
của xă hội phong kiến.
-Trong
vấn đề phản ánh hiện thực, tố cáo
tội ác của giai cấp thống trị, vạch rơ
bản chất của xă hội phong kiến, nói lên
những nỗi thống khổ của quần chúng lao
động, tác giả của những truyện nôm giàu tính
quần chúng này cũng chưa có được cái nh́n
đầy đủ, sâu sắc và toàn diện. Kẻ thù
giai cấp của quần chúng hiện lên trong
trụuyện chưa phải là cả hệ thống giai
cấp phong kiến thống trị đă cấu kết
với nhau để bóc lột nhân dân mà chỉ hiện
lên lẻ tẻ. H́nh thức bóc lột chính là bóc
lột về mặt kinh tế vẫn chưa được
các tác giả của bộ phận văn học này đề
cập đến. Song ở một mức độ nào
đó các tác giả này cũng đă chung sức vạch
rơ bản chất thối nát , tàn bạo của xă
hội phong kiến. Họ cũng đă dũng cảm làm
cái công việc mà những nhà thơ, nhà văn đại
diện cho quyền lợi của giai cấp thống
trị không dám làm hoặc che dấu để dối ḿnh,
lừa người. Đó là phơi bày chân dung thực
vốn hết sức bẩn thỉu của giai cấp
thống trị. Có thể nói, cùng với bộ phận văn
học dân gian, truyện Nôm b́nh
dân đă giúp chúng ta t́m hiểu thêm được
nhiều mặt thuộc về bản chất của xă
hội phong kiến, một xă hội mà lịch sử dân
tộc ta măi c̣n lên án.
-Những
truyện Nôm khuyết danh đă xây dựng được
một hệ thống nhân vật phản diện từ
vua chúa, quan lại, bọn nhà giàu ở nông thôn cho đến
cả thần thánh (những thần thánh tàn ác). Qua
hệ thống nhân vật phản diện này các tác
giả đă vạch trần, tố cáo bản chất
xấu xa của giai cấp bóc lột, áp bức đồng
thời nói lên t́nh trạng thống khổ của các
tầng lớp nhân dân với một thái độ đồng
t́nh sâu sắc..
-Vua
chúa.
+Nếu như trong văn học bác học vua chúa thường
được nhắc đến với một thái độ
tôn kính hoặc được coi như những thần tượng
thiêng liêng tôn quư th́ ở truyện Nôm b́nh dân chúng
chỉ là những tên hôn quân, bạo chúa đáng lên án
nhất. Loại truyện này nói rất nhiều đến
việc vua chúa ép duyên trắng trợn. Hoặc chúng ép các
tân khoa trạng nguyên phải bỏ vợ tào khang (người
vợ đă cùng chung sống trong cảnh nghèo hèn) để
lấy con gái ḿnh (hai tên vua trong Tống Trân-Cúc Hoa đă
lần lượt ép Tống Trân lấy con gái ḿnh,
bỉ ổi nhất là tên vua nước Việt sau khi không
ép được Tống Trân hắn đă đẩy chàng
đi xa). Hoặc những tên vua như Trang vương
trong Phạm Tải-Ngọc Hoa, vua Hung Nô trong Lư Công đă
ép những người con gái đẹp bỏ chồng
để lấy ḿnh. Tàn bạo nhất vẫn là Trang Vương,
hành động ép buộc của y đă đẩy
Ngọc Hoa-một cô gái đang yêu
vào chỗ chết. Cái chết của nhân vật này đă
gieo vào ḷng người đọc một nỗi thương
tâm vô hạn và càng thấy căm thù hơn giai cấp
phong kiến thống trị.
+Có quyền, có lực bọn vua chúa tự cho phép ḿnh
làm những việc trái với luân thường, đạo
lư nhằm thỏa măn dục vọng đen tối của
ḿnh nhưng mặt khác đối với quần chúng lao
động- những con người bị áp bức-
bọn chúng lại ra sức ḱm hăm t́nh cảm chân chính
của họ. Tên vua Bảo Vương trong Lư Công đă
cương quyết cắt đứt t́nh cha con, nhẫn tâm
bắt con gái độc nhất cho voi giày, không được
th́ đem thả bể trôi sông chỉ v́ công chúa đă
tự tiện yêu đương ngoài sự kiểm soát
của cha mẹ.
-Quan
lại: Trong truyện Nôm b́nh
dân, bon quan lại hiện lên chỉ là những kẻ
bất tài, bất lực, chỉ giỏi việc xu
nịnh vua, giỏi ức hiếp dân. Cả lũ
triều thần trong Phạm Tải-Ngọc Hoa không ngăn
cản nổi vua làm điều xằng bậy lại con
xúi giục vua đi sâu vào tội lỗi. Tên quan trong Phương
Hoa chỉ v́ không lấy được người con gái
đă hứa hôn đă đem tay chân đến giết
hại, cướp của, phá nhà của cô gái ấy.
-Bọn
nhà giàu ở nông thôn.
Những
phú ông, những trưởng giả-bọn giàu có ở nông
thôn được phản ánh trong các truyện Nôm
khuyết danh b́nh dân khá sâu sắc. Nét nổi bật
ở bọn người này là tâm lư tham tiền. V́
tiền, bọn chúng có thể làm tất cả. Có độc
giả nào lại không căm ghét tên trưởng giả
trong Tống Trân-Cúc Hoa. V́ tiền mà hắn đă coi con gái
như một món hàng có thể đánh mơ, rao làng, gả
bán mấy lần cũng được. Chẳng cần
giữ một chút liêm sĩ nào cả, y ép Cúc Hoa phải
bỏ chồng đi vắng để lấy một người
triệu phú trong làng. Khi con gái kháng cự lại, y đă
hành hạ con không tiếc tay và cuối cùng vẫn gả
bán con cho bằng được mặc cho cô gái tội
nghiệp kêu than.
*Tóm
lại: Tất cả những bọn này để đạt
được mục tiêu ích kỷ, đê hèn của ḿnh
đă không từ một âm mưu, một thủ đoạn
đen tối, hiểm độc nào. Chúng đă giày xéo lên
những đạo đức, luân lư cơ bản
nhất, giày xéo lên những pháp luật mà chúng đặt
ra, giày xéo lên tính mạng của người dân và phá
hoại hạnh phúc của bao nhiêu người vô tội.
Đồng
thời với việc tố cáo tội ác của giai
cấp thống trị, tác giả của bộ phận văn
học này đă nói lên được nỗi thống
khổ của quần chúng lao động (hạnh phúc tan
vỡ, tính mạng bị đe dọa.. .) với một
thái độ đồng t́nh sâu sắc.
2.1.2.Đề
cao những phẩm chất tốt đẹp của
quần chúng lao động.
Truyện Nôm b́nh dân
có một giá trị nhân đạo khá sâu sắc bởi
nó không chỉ tố cáo những tội ác của giai
cấp thống trị với quần chúng lao động
, với những con người bị áp bức, đè nén
mà các tác giả của bộ phận văn học này c̣n
có ư thức đề cao phẩm chất tốt đẹp
của quần chúng lao động, đặc biệt là
đề cao người phụ nữ- con người
thấp hèn nhất trong xă hội xưa.
-Khuynh hướng đề cao quần chúng lao động
đều thể hiện rất rơ trong mọi truyện Nôm
b́nh dân. Ta thấy rằng các
nhân vật chính bao
giờ cũng là những người lao động, những
người bị áp bức, bóc lột. Truyện viết
về họ nên tác giả thường lấy tên họ
đặt cho tác phẩm: Thạch Sanh, Tấm Cám, Trương
Chi.. .
-Đề cao phẩm chất tốt đẹp của
quần chúngü, tác giả của bộ phận văn
học này chủ yếu viết về những t́nh
cảm tốt đẹp và ḷng nhân đạo cao quư
của họ. Trước
hết là ḷng thương người, một t́nh thương
hết sức mộc mạc, chân thành mà cảm động
và vững bền.
-Đó là những con người như Cúc Hoa, Ngọc
Hoa sẵn sàng yêu thương kẻ nghèo khó khốn cùng
(mẹ con Phạm Công, Phạm Tải). Đó là tấm ḷng
cưu mang những con người sa cơ, lỡ vận; là
tấm ḷng chí hiếu của những nàng dâu đối
với mẹ chồng như Thoai Khanh đối với
mẹ Châu Tuấn, Cúc Hoa đối với mẹ Phạm
Công. Quan hệ mẹ chồng-nàng dâu ở đây
được khẳng định là một t́nh cảm
tốt đẹp, đáng quư chứ không phủ định
như ở ca dao.
-Nổi bật nhất vẫn là t́nh cảm, t́nh yêu
của những cặp vợ chồng, họ yêu thương
thắm thiết và chung thủy hết mực với nhau.
Sự chung thủy của vợ chồng Phạm
Công-Cúc Hoa, Phạm Tải-Ngọc Hoa đă giúp
họ vượt qua mọi thử thách, mọi cảnh
ngộ éo le mà xă hội phong kiến đă bày ra, giúo
họ vượt lên trên sự cám dỗ của giàu sang,
phú quư, đứng vững trước sự đe
dọa của cường quyền, bạo lực.
-Đề cao quần chúng lao động, tác giả
của bộ phận văn học này cũng đặc
biệt chú ư đề cao người phụ nữ. Đây
cũng là một nét đặc sắc của văn
học giai đoạn này đồng thời nó cũng là
sự phản ánh vai tṛ, chức năng của người
phụ nữ vào văn học. Các nhân vật phụ
nữ xuất hiện trong các truyện Nôm b́nh dân có
nhiều nét đổi mới: Họ xuất hiện
với một tư thế của người vươn
lên làm chủ vận mệnh. Thường xuất thân
từ lá ngọc cành vàng (con nhà triệu phú trở lên như
Cúc Hoa) nhưng các nhân vật nữ này lại có thân
phận cụ thể của quần chúng lao động
(họ cũng bị áp bức, đè nén; giàu ḷng
trắc ẩn, giàu ḷng thương người).
Các điểm cần lưu ư.
+Các nhân vật nữ đă dám hành động theo
suy nghĩ của ḿnh chứ không theo đạo đức
phong kiến. Hành động của Cúc Hoa, Ngọc Hoa
quả là những hành động táo bạo. Hai cô gái này
đă cương quyết lấy người con trai mà ḿnh
đă thương yêu dù những chàng trai đó là
những người ăn mày nghèo nàn. Quan niệm về
hôn nhân của Cúc Hoa, Ngọc Hoa là một quan niệm
hết sức tiến bộ, nó vượt xa quan niệm
môn đăng hộ đối của các cô gái quư
tộc xưa. Hai cô dám nh́n thẳng vào chân giá trị
của những con người nghèo hèn nhất, đến
với họ và đến với cả một tấm ḷng
yêu thương và thông cảm.
+Hoàn toàn khác với các cô gái trong truyện Nôm bác
học, đến với t́nh yêu bằng sự rung động
của giới tính, cac cô gái của truyện Nôm b́nh dân
đă đến với t́nh yêu bằng sự rung động
của đạo đức-ḷng yêu thương những
người nghèo. Đây chính là cơ sở của nhiều
mối t́nh son sắt, thủy chung bất chấp những
ngang trái của cuộc đời cũ.
+Một
số nhân vật nữ không chỉ dám chủ động
xây dựng hạnh phúc mà c̣n tích cực đấu tranh
để bảo vệ hạnh phúc và t́nh yêu đẹp
đẽ của ḿnh (nên nhớ rằng các nhân vật này
bảo vệ t́nh yêu, hạnh phúc của bản thân
chứ không phải để bảo vệ đạo
đức phong kiến). Và trong cuộc đấu tranh
đó họ đă bộc lộ những
phẩm chất tốt đẹp (ḷng vị tha,
đức hi sinh, nghị lực phi thường, trí thông
minh quyết đoán...) mà nội dung phản ánh c̣n
được mở rộng, ư nghĩa xă hội của
chủ đề được nâng cao. Cuộc đấu
tranh của họ ngoài ư nghĩa bảo vệ hạnh phúc,
t́nh yêu c̣n có ư nghĩa bảo vệ nhân phẩm, bảo
vệ chính nghĩa, bảo vệ công lư.
+Cố nhiên những phẩm chất đạo đức
trên thường bị tác giả quy vào những quan
niệm: trung, hiếu, tiết, nghĩa của hệ thôïng
luân lư Nho giáo. Nhưng xét cho cùng những khái niệm
đạo đức đó căn bản đă có một
nội dung nhân đạo được nhân dân tán thành
và ưa chuộng.
2.1.3.Cách
giải quyết các vấn đề xă hội.
-Truyện
Nôm b́nh dân không chỉ đặt ra những vấn đề
lớn lao mà truyện Nôm c̣n đưa ra được cách
giải quyết tích cực là để những người
lương thiện chiến thắng các lực lượng
bạo tàn. Đây là phần lăng mạn tích cực của
bộ phận văn học này v́ thực ra trong chế
độ phong kiến nói chung nhân dân lao động làm ǵ
kiếm ra được hạnh phúc trọn vẹn
bởi các cuộc khởi nghĩa của nông dân thường
đi đến thất bại hoặc chỉ đưa
đến một sự thay đổi triều đại
rồi đâu lại vào đấy.
-Nhưng
có một điều là sống trong xă hội đen
tối đó quần chúng lao động bao giờ cũng
có một ước mơ về một xă hội không có
sự bất công, bất b́nh đẳng, một xă
hội thái b́nh trong đó người ta sống yêu thương
nhau và có hạnh phúc đầy đủ, họ ước
mơ một xă hội có vua tốt, tôi hiền. (Văn
học dân gian nói đến vấn đề này rất rơ).
Đó là những mơ ước chính đáng (xét trong hoàn
cảnh xă hội) chứ chưa phải là nhữnh mơ
ước đúng đắn nhất, đầy đủ
nhất. Tác giả của bộ phận văn học này
là những người có cuộc sống khá gần gũi
với quần chúng lao động nên họ hiểu
được quần chúng nhiều hơn và phản ánh
được những ước mơ đẹp đẽ,
phản ánh được tinh thần lạc quan mạnh
khỏe của quần chúng vào sáng tác của ḿnh. V́
thế các sáng tác của các tác giả b́nh dân này đă
tiếp thêm sức sống cho con người lao động
trong xă hộ xưa, quần chúng t́m đến những sáng
tạo nghệ thuật này một phần cũng v́ lư do
trên.
-Chúng
ta cũng cần biết thêm rằng: Do những hạn
chế của lịch sử cho nên các tác giả cũng
chưa nh́n thấy ở quần chúng cái động
lực để giải quyết các vấn đề
thời đại đặt ra, cho nên trong đấu tranh
họ phải nhờ đến những lực lượng
siêu h́nh như thần phật giúp đỡ. Nhưng
thần phật cũng chỉ có mặt để cho con người
chiến đấu hết ḿnh với hoàn cảnh. Trong
cuộc đấu tranh sinh tử ấy, con người
vẫn phải chủ động, vẫn phải nỗ
lực rất nhiều.
2.Đặc điểm nghệ thuật. |
2.2.1.Kết cấu cốt truyện.
-Truyện
Nôm b́nh dân có một phong cách gần giống với
truyện cổ dân gian, có thể coi nó là gạch nối
giữa văn học dân gian và văn học bác học.
-Phần lớn các truyện b́nh dân này đều mượn
kết cấu, cốt truyện của truyện cổ dân
gian và bảo lưu khuôn dạng của truyện cổ. Cơ
sở cốt truyện là xung đột xă hội, xung
đột giữa thiện, ác nhưng các truyện Nôm b́nh
dân chỉ biểu hiện ở góc độ bảo
vệ t́nh yêu, hạnh phúc; chống lại sự
thống trị của giai cấp phong kiến; kết
cấu theo đường thẳng; kết thúc có hậu;
t́nh tiết phát triển theo sự phát triển của nhân
vật chính.
-Tuy nhiên so với văn học dân gian, truyện Nôm
b́nh dân cũng có một số nét khác biệt thể
hiện của một thể loại có khả năng
phản ánh hơn truyện cổ như tác giả đă
chú ư mô tả một số cảnh sinh hoạt xă
hộivà con người, yếu tố trữ t́nh ít
nhiều đă có vị trí đáng kể, thỉnh
thoảng có tác giả đă chú ư miêu tảí tâm
trạng của nhân vật. Ngoài ra truyện Nôm b́nh dân cũng
không c̣n những lời b́nh luận, triết lư về
cuộc đời của tác giả ở đầu hay
cuối truyện như ở truyện cổ.
2.2.2.Nhân
vật.
Nhà
văn quan tâm đến việc dựng câu chuyện,
đến hành động chứ không chú ư
đến
tâm ly ïnhân vật. Thường nhân vật phản
diện thành công hơn nhân vật chính diện. Nhiều
nhân vật c̣n rất đơn giản mặc dù đă
đúng về bản chất.
2.2.3.Phương
pháp sáng tác.
Đă có sự kết hợp giữa yếu tố
hiện thực và lăng mạn nhưng sự kết
hợp này c̣n non nớt vô cùng, nó chưa phản ánh
được một cách chân thực quá tŕnh phát
triển biện chứng của nhân vật, mỗi
truyện đều chưa có được phong cách riêng,
nhiều chuyện c̣n có chung môtip về nhân vật chính
diện (nho sĩ nghèo đỗ trạng nguyên(bị ép
duyên rồi v́ từ chối mà bị hăm hại hoặc
đi sứ xa, sau được sum họp).
-Thể hiện cuộc đấu tranh giai cấp
quyết liệt trong xă hội mới ở khía cạnh
đấu tranh bảo vệ t́nh yêu, hạnh phúc lứa
đôi.
-Chưa phản ánh khía cạnh giai cấp thống
trị cấu kết với nhau để bóc lột nhân
dân về kinh tế.
-Chưa gắn được cuộc đấu tranh
giữa những người bị áp bức vào cuộc
đấu tranh của quần chúng lao động trong xă
hội.
-Ước mơ cuối cùng của tác giả là
thay đổi triều đại chứ chưa phải là
thay đổi chế độ xă hội.
Những
hạn chế trên là tất yếu v́ sống trong xă
hội phong kiến các tác giả không thể thoát
khỏi ảnh hưởng
nhiều hay ít của tư tưởng thống trị xă
hội cũng như không thể vượt qua được
hạn chế của lịch sử.
Tuy
c̣n có một số hạn chế nhất định nhưng
Truyện b́nh dân vẫn là một bộ phận văn
học có giá trị, là vốn quư trong gia tài văn hóa
chung của dân tộc. Bộ phận văn học này
đă đóng góp tiếng nói vào loại h́nh tự
sự của nền văn học nước nhà. Cùng
với các bộ phận truyện Nôm khác, bộ phận
truyện Nôm khuyết danh tạo nên một nền
rộng răi để trên cơ sở đó xuất
hiện kiệt tác Truyện Kiều của Nguyễn Du.