CHƯƠNG
9
NGUYỄN BỈNH KHIÊM- CUỘC ĐỜI VÀ THƠ VĂN
CHƯƠNG
9
NGUYỄN
BỈNH KHIÊM- CUỘC ĐỜI VÀ THƠ VĂN
I. CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC
Sinh
năm 1491 mất năm 1585, tên húy là Văn Đạt,
tự là Hanh Phủ, đạo hiệu Bạch Vân cư sĩ.
NBK vốn người làng Trung Am, huyện Vĩnh Lại,
tỉnh Hải Dương. Cha ông là Văn Định (Cù Xuyên
tiên sinh), mẹ là con gái quan thượng thư Nhữ Văn
Lan
Lúc
nhỏ, ông theo học bảng nhăn Lương Đắc
Bằng, nổi tiếng thông minh khác thường,
được thầy yêu mến.
Học
giỏi nhưng lúc c̣n trẻ,ông không chịu ra thi làm
quan, thích sống đời ẩn dật. Măi đến năm
45 tuổi, ông đột ngột ra thi và đỗ ngay
Trạng nguyên khoa Ất Mùi, niên hiệu Đại Chính
thứ 6 (1535) đời Mạc Đăng Doanh.
Ở
triều được 8 năm, ông lại xin về ở
ẩn nhưng vẫn theo giúp nhà Mạc khi có yêu cầu.
Về
Trung Am, ông cho xây dựng am Bạch Vân, lập quán Trung Tân
bên ḍng sông Tuyết để dạy học tṛ nên người
đời sau c̣n gọi ông là Tuyết giang phu tử.
Học tṛ ông có nhiều người lỗi lạc như
Nguyễn Dữ, Phùng Khắc Khoan,..
Khi
mất, ông được nhà Mạc truy phong Lại
bộ thượng thư Tŕnh quốc công, cho xây dựng
miếu thờ
Chữ
Hán: Bạch Vân am tập, một bài tựa, tác phẩm
Trung Tân bi quán kư, Thạch Khánh kư.
Chữ
Nôm: Bạch Vân quốc ngữ thi (khoảng 170 bài thơ)
Sống
gần trọn thế kỷ XVI, Nguyễn Bỉnh Khiêm
chứng kiến toàn vẹn sự suy sụp từng bước
của chế độ phong kiến. Thơ văn ông
phản ánh rơ nét thực chất phi nghĩa, tàn khốc
của nội chiến phong kiến và những mặt trái
của xă hội đương thời. Ở đó,
từ vua, quan đến tầng lớp kẻ sĩ xu
nịnh đều xem đồng tiền là trên hết.
Lễ giáo phong kiến ngày một suy vi:
Cương
thường nhật điệu thi
Lễ
nghĩa thán quải trượng (Cảm hứng).
Bọn
vua chúa gian dâm vô độ, thích gây chiến tranh khiến
đồng ruộng biến thành băi chiến trường,
khắp nơi đều là lũy giặc:
Nguyên
dă tác chiến trường
Tỉnh
ấp biến tặc lũy.
Bọn
quan lại được tác giả so sánh với bọn
chuột lớn bất nhân chuyên dựa vào thế lực
vua chúa để đục khoét của cải của nhân
dân khiến mọi người oán đầy bụng
Thành
xă ỷ vi gian
Thần
dân oán măn phúc (Tăng Thử)
Lư
tưởng trọng nghĩa khinh tài của kẻ sĩ
bị bôi nhọ bởi đồng tiền:
C̣n
bạc c̣n tiền c̣n đệ tử
Hết
cơm hết rượu hết ông tôi (Thói đời)
Xă
hội phong kiến chỉ đầy dẫy nhựng
cảnh cá lớn ăn thịt cá nhỏ. Tinh thần nhân
nghĩa giờ bị mờ nhạt bởi sức nặng
của đồng tiền:
Đời
nay nhân nghĩa tựa vàng mười
Có
của th́ hơn hết mọi lời
Để
chỉ tư tưởng nhàn tản, có nhiều thuật
ngữ: an nhàn, nhàn tản, nhàn dật, nhàn phóng, ản
dật, nhàn,.. Nói chung đều có nghĩa là làm rất
ít hoặc không làm ǵ cả. Thể xác an nhàn, tâm hồn
thanh thản, những kẻ sĩ ẩn dật thường
không c̣n lo nghĩ việc đời, thích ngao sơn
ngoạn thủy, xem danh lợi như một áng phù vân.
Tư
tưởng Nhàn của kẻ tu hành chịu ảnh hưởng
của thuyết xuất thế của nhà Phật. Tư tưởng
nhàn của những kẻ trốn tránh nhiệm vụ, hưởng
lạc, vinh thân ph́ da là những tư tưởng có tính
chất tiêu cực. Nhàn đối với Nguyễn
Bỉnh Khiêm, một kẻ sĩ có khát vọng cứu dân
giúp đời nhưng bất lực trong hoàn cảnh
rối ren, là sự phản kháng, không cộng tác với
nhà nước phong kiến để giữ tṛn phẩm
giá của kẻ sĩ chân chính trong thời buổi
loạn lạc:
Lúc
nhàn ngẫm việc xưa nay
Không
ǵ hiểm bằng đường đời (Trung Tân
ngụ hứng)
Ḷng
vô sự, trăng in nước
Cửa
thảng lai, gió thổi hoa (Thơ Nôm 34)
Rượu
đến cội cây ta sẽ nhắp
Nh́n
xem phú quư tựa chiêm bao
Cũng
có lúc tác giả nhắc đến sự chọn lựa
vụng dại của ḿnh mà thật ra là để chê trách
sự gian xảo của người đời:
Ta
dại ta t́m nơi vắng vẻ
Người
khôn người đến chốn lao xao
Người
xảo th́ ta vụng
Âúy
vụng thế mà hay
Ta
vụng th́ người xảo
Ấy
xảo thế mà gay (Trung Tân ngụ hứng)
Qua
việc ca ngợi chữ Nhàn, có thể thấy rơ tấm
ḷng yêu nước thương dân chân thành của nhà thơ.
Cuộc
đời nhàn tản giúp Nguyễn Bỉnh Khiêm có
thể chiêm nghiệm được thời thế hưng
vong. Ông được xem là một nhà thơ triết
học nhờ những nhận xét mang tính khái quát, hàm súc
cao độ về bản chất của đời
sống, lẽ hưng vong, đắc thất, sang hèn:
Hoa
càng khoe nở hoa nên rữa
Nước
chứa cho đầy nước ắt vơi (Trung Tân
ngụ hứng)
Đối
với NBK, sự biến đổi có tính chất
tuần hoàn của tạo hóa (theo quan niệm triết
học của người trung đại) được
đồng nhất với sự biến đổi, hưng
vong, đắc thất của chế độ phong
kiến. Sự biến đổi này, theo ông, là rất ghê
gớm:
Thế
gian biến cải vũng nên đồi
Mặn
nhạt chua cay lẫn ngọt bùi
Dựa
vào lẽ tương sinh tương khắc, ông đă
thể hiện rơ những xung đột gay gắt trong xă
hội đương thời: chiến tranh phong kiến,
sự phân chia giai cấp nghèo giàu, sang hèn trong xă hội,
mâu thuẫn giữa hạnh phúc và bất hạnh trong
đời người,..Chính những xung đột đó
đă dẫn đến một quá tŕnh suy thoái mà
những kẻ sĩ chân chính thời đó luôn đau ḷng
khi chứng kiến. Dựa vào lẽ tuần hoàn, ông
cố gắng lư giải sự biến đổi, sự
suy thoái của chế độ phong kiến như là
một giai đoạn tất yếu trong chu kỳ hết
hưng thịnh đến suy vong. Điều này cũng có
nghĩa là ông rất tin tưởng vào tương lai, lúc
mà CĐPK t́m lại được sự ổn định,
cân bằng :
Tái
nhất âm hề phục nhất dương
Tuần
hoàn văn phục lư chi thường (Khiển hứng)
Tuy
nhiên, sự vận động của lịch sử dân
tộc không đồng nhất với sự vận động
của chế độ phong kiến. V́ vậy, bản thân
những tư tưởng của ông cũng chứa đựng
những mâu thuẫn giữa ư muốn giải quyết
những khó khăn của phong kiến trong hoàn cảnh suy
thoái và sự bất lực trước hoàn cảnh nan
giải đó
Nói
đến tính chất tích cực trong tư tưởng
nhàn tản của Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng là nói
đến một tấm ḷng tiên ưu đến già
vẫn chưa thôi:
Lăo
lai vị ngăi tiên ưu chí
Đắc
táng cùng thông khởi ngă ưu (Tự thuật)
Sống
trong hoàn cảnh loạn lạc, tâm sự lo âu khiến tóc
ông bạc trắng (Nguy thời ưu quốc mấn thành
ti- Thu tứ). Tóc bạc trắng, bởi tấm ḷng ưu
ái vẫn đêm đêm day dứt:
Ưu
thời thốn niệm bằng thùy tả
Duy
hữu hàn sơn bán dạ chung (Trung Tân quán ngụ
hứng)
Tóm
lại, NBK thân nhàn nhưng tâm không nhàn, suốt đời
lo nước thương dân
Tác
phẩm của ông phần lớn viết trong bối
cảnh cuộc sống nhàn tản ở nông thôn và ông
tỏ ra rất tâm đắc
với đời sống ẩn cư đó:
Một
mai một cuốc một cần câu
Thơ
thẩn dầu ai vui thú nào
Thơ
ông thể hiện một sự gắn bó chân thành
giữa con người với cảnh vật:
Non
nước có mùi ḷng khách chứa
Trúc
mai làm bạn hứng thơ nồng (Thơ Nôm bài 33)
Ba
gian am quán ḷng hằng mến
Đ̣i
chốn sơn hà mặt đă quen (bài 8)
Ông
dành trọn t́nh cảm chân thành của ḿnh cho nhân dân lao
động:
Vũ
Dương khoái đỗ thời thời nhược
Thượng
thụy ưng tri đại hữu niên (Hạ nhật vũ
t́nh)
(Mừng
thấy mưa nắng đúng kỳ- Biết điềm lành
được mùa lớn)
6. Những yếu tố tiêu cực trong tư tưởng nhàn tản của Nguyễn Bỉnh Khiêm. |