CHƯƠNG 7 : NHỮNG THÀNH TỰU CỦA VĂN HỌC NGHỆ THUẬT KHOA HỌC KỶ THUẬT THẾ KỶ XIX
BÀI 16: NHỮNG THÀNH TỰU CỦA VĂN HỌC - NGHỆ THUẬT KHOA HỌC - KỶ THUẬT THẾ KỶ XIX
Từ
khóa: văn học lãng
mạn, hiện thực, khoa học, kĩ thuật.
Mục
đích: qua chương này,
giáo viên giúp cho sinh viên có một cái nhìn tổng quát về những thành
tựu trong các lĩnh vực VH,
KH, KT của thế kỉ XIX. Những thành tựu này là những đóng góp
quan trọng của các nước trong nền văn minh nhân loại.
Yêu
cầu: Sinh viên cần nắm
những nội dung sau:
-
Nội dung văn học lãng mạn, văn học hiện thực.
-
Những thành tựu lớn trong các lĩnh vực kĩ thuật và các ngành khác
nhau trong khoa học
BÀI 16: NHỮNG THÀNH TỰU CỦA VĂN HỌC - NGHỆ THUẬT KHOA HỌC - KĨ THUẬT THẾ KỈ XIX |
Từ
cách mạng tư sản Hà Lan cho đến cuối thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư
bản đã xác lập và thắng lợi ở các nước châu Âu và châu
Mỹ. Chủ nghĩa tư bản thoát khỏi những ràng buộc của chế độ
phong kiến, rộng đường phát triển. Giai cấp tư sản cũng tiến
hành cuộc cách mạng kỹ thuật nhằm xây dựng cơ sở vật chất
cho chủ nghĩa tư bản. Chính nhờ cuộc cách mạng công nghiệp mà
giai cấp tư sản đã tạo ra những lực lượng sản xuất nhiều hơn
và đồ sộ hơn lực lượng sản xuất của tất cả các thế hệ
trước kia gộp lại.... Với thắng
lợi của cách mạng công nghiệp, chủ nghĩa tư bản đạt những
thành tựu to lớn. Thế kỷ XIX là thế kỷ của những thắng lợi
rực rỡ mà chủ nghĩa tư bản đạt được trong các mặt văn
học, nghệ thuật, khoa học, kỹ thuật.
I.
VĂN HỌC |
Văn
học thế kỷ XIX phát triển mạnh với hai trào lưu văn học lớn:
văn học lãng mạn và văn học hiện thực. Các tác giả của thế
kỷ XIX đã để lại cho nhân loại những bộ tiểu thuyết đồ
sộ và tồn tại mãi với thời gian.
1.
Văn học lãng mạn.
1.1.
Hoàn cảnh ra đời:
Chủ
nghĩa lãng mạn ở các nước phương Tây ra đời dưới ảnh hưởng
của cách mạng Pháp. Cách mạng Pháp 1789 đánh đổ chế độ phong
kiến, thiết lập chế độ tư
sản là một bước ngoặc quan trọng, đánh dấu sự mở đầu
của một chế độ chính trị mới, phù hợp với sự phát triển
của lịch sử xã hội loài người. Ðây là cuộc cách mạng duy
nhất đã chiến thắng triệt để chủ nghĩa phong kiến nhằm
giải quyết mâu thuẫn giữa một bên là giai cấp phong kiến đang
trên đà tan rã và một bên là giai cấp tư sản đang đi lên. Cách
mạng Pháp, vì vậy được sự ủng hộ nhiệt tình của những người
có tư tưởng tiến bộ và quần chúng nhân dân lao động. Tuy nhiên,
sau khi lật đổ giai cấp phong kiến, giai cấp tư sản đã giành
lấy những thành quả của cách mạng về phần mình, thay thế
những quan hệ bóc lột của xã hội cũ bằng những quan hệ bóc
lột của xã hội mới, tạo nên những tâm thế khác nhau trong đời
sống xã hội.
Sự
sụp đổ của quan hệ xã hội cũ và
sự xác lập những quan hệ xã hội mới, đặc biệt là trong
thời gian sau những cuộc chiến tranh của Napoléon, sự xác lập
của Vương triều Phục hồi (1815-1830)... có tác động
mạnh mẽ đến mọi tầng lớp công chúng và ảnh hưởng
rộng rãi đến nhiều nước châu Âu. Một mặt, nó tạo nên sự
bất mãn, chống đối của những người gắn bó tình cảm và
quyền lợi với chế độ phong kiến phân quyền, muốn duy trì và
bảo vệ trật tự xã hội mà họ cho là tốt đẹp, lí tưởng.
Mặt khác, nó lại không đáp ứng được lòng mong mỏi và niềm
tin của những tầng lớp quần chúng đã nhiệt tình ủng hộ cho cách
mạng. Ước mơ vào một xã hội tốt đẹp đã không trở thành
hiện thực...Chủ nghĩa lãng mạn đã hình thành và phát triển
trong hoàn cảnh lịch sử xã hội và tâm lí đó.
1.2.
Nội dung: Chủ nghĩa lãng mạn là tiếng nói của thời đại mới.
Nó chia thành
hai khuynh hướng: lãng mạn tiêu cực, bảo thủ và lãng mạn tích
cực, tiến bộ. Hai khuynh hướng khác nhau trong chủ nghĩa lãng
mạn là do những phản ứng khác nhau của các giai cấp, các tầng
lớp nhân dân đối với kết quả của cách mạng tư sản. Cơ sở
của khuynh hướng lãng mạn tiêu cực là sự chống đối của
tầng lớp quí tộc bị cách mạng Pháp lật đổ. Ngoài ra, cơ sở
giai cấp của nó còn là tầng lớp tiểu tư sản bảo thủ chịu
ảnh hưởng sâu xa của ý thức phong kiến lỗi thời. Vì vậy,
nội dung của văn học lãng mạn tiêu cực là tiếng kêu thất
vọng, lời than vãn, thương tiếc về một quá khứ cũ. Nó thất
vọng với hiện tại và tìm đến những nơi náu ẩn của tinh
thần như tôn giáo, tình yêu, vũ trụ.... Cở sở giai cấp của
khuynh hướng lãng mạn tích cực là đông đảo quần chúng nhân dân
phân hóa từ Ðẳng cấp thứ ba sau cách mạng tư sản và những
tầng lớp trí thức tiểu tư sản tiến bộ có điều kiện thuận
lợi để nói lên những tâm tư, tình cảm của quần chúng nhân dân
lao động. Văn học lãng mạn tích cực hướng về tương lai, gởi
gắm hy vọng vào việc cải tạo xã hội với một khát vọng chân
lý và tự do. Các nhà văn lãng mạn tích cực luôn luôn muốn khám
phá và sáng tạo, xông pha tìm cái mới. Ngoài ra nó còn
mang nhiệt tình yêu nước và ít nhiều vươn đến tính chất lãng
mạn cách mạng.
Về
nghệ thuật, chủ nghĩa lãng mạn đã thay thế sự tìm tòi một chân
lý phổ biến và trừu tượng bằng sự miêu tả những kinh nghiêm
riêng và cụ thể. Các nhà văn lãng mạn đã đối lập với
những qui tắc của nghệ thuật cổ điển bằng tự do trong nghệ
thuật sáng tạo. Họ không mô phỏng tự nhiên, không tái hiện mà
phát huy đến cao độ kiểu sáng tác tái tạo nghệ thuật không
phải là sự mô tả thực tại có thực mà là sự tìm tòi chân lý
lý tưởng (George Sand). Chủ nghĩa lãng mạn tích cực là văn học
của cái tôi cho nên rất giàu tính trữ tình. Thơ trữ tình rất
được ưa chuộng, đề tài tình yêu rất phổ biến, thể loại
tự truyện khá phát triển.
1.3.
Các nhà văn tiêu biểu:
Nói
đến trào lưu lãng mạn, phải nói đến văn học lãng mạn Pháp.
Văn học lãng mạn Pháp là một dòng văn học lớn, phản ánh cụ
thể tình hình đấu tranh giai cấp trong khoảng thời gian giữa hai
cuộc cách mạng 1789-1848.
-
Các nhà văn lãng mạn Pháp: Chataubriand với những tác phẩm: René,
Atala, Những kẻ tử vì đạo....; Lamartine với tác phẩm Le Lac,
Những trầm tư đầu tiên; Alfred Vigny với Saint Marc, Moise, Héloise
... Ðại biểu cho những nhà văn lãng mạn tiến bộ là Mme de
Stael, kế đó là George Sand với trên 90 tác phẩm, trong đó có
những tác phẩm lớn: Valentine, Lélia, Indiana, Cái ao ma quái, Cô bé
Fayette....Victor Hugo được xem là nhà văn lãng mạn tiến bộ vĩ đại.
Các tác phẩm của ông nhuốm đầy tinh thần nhân đạo chủ nghĩa,
phục vụ cuộc đấu tranh của nhân dân, cho công lý, hòa bình, cho
những người khốn khổ. Ông nổi tiếng với các tập tiểu
thuyết: Những người khốn khổ, Nhà thờ đức bà Paris, Năm 93,
Cromwell, Trừng phạt...
-
Các nhà văn lãng mạn ở Anh: Wordsworth, Coleridge, Keats Byron với
những tác phẩm ca ngợi những cuộc đấu tranh của công nhân và
các phong trào giải phóng dân tộc. Ngoài ra còn có Shelley, một nhà
thơ tiến bộ với những tác phẩm như: Thư gởi gió Tây, Prométée
giải phóng, Gửi con chim sơn ca, Hélax....
-
Ở Ðức: Wilhem Schelgel và Fridrich Schelgel được xem là những người
mở đường cho văn học lãng mạn Ðức. Ngoài ra còn có thể kể
Goeth, Heiner...
2.
Văn học hiện thực phê phán thế kỷ XIX.
2.1
Hoàn cảnh ra đời:
Chủ
nghĩa hiện thực phê phán ở Tây Âu hình thành vào những năm 20
của thế kỷ XIX và phát triển rực rỡ từ những năm 30 đến
những năm 60. Nó ra đời và phát triển trong thời kỳ mà mâu
thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản trở nên quyết
liệt.
Sự
phát triển của chủ nghĩa tư bản làm cho số phận của công nhân
và quần chúng nhân dân ngày càng khốn khổ. Các nhà văn, nhà tư
tưởng sống trong thời kỳ này, đã lấy chất liệu từ thực
tế của cuộc sống để vạch ra những xấu xa của xã hội tư
bản, phê phán và lên án mối quan hệ tư bản chủ nghĩa trong xã
hội tư bản chủ nghĩa.
2.2.
Nội dung:
Các
nhà văn hiện thực đã đi sâu tìm hiểu thực tế để phản ánh
trong sáng tác của mình, đi sâu vào bản chất, phát hiện ra
những mâu thuẫn trong hiện thực. Họ vạch trần bản chất xấu
xa của xã hội tư sản, qui luật cạnh tranh khốc liệt của chủ
nghĩa tư bản, sự bóc lột tàn nhẫn của những người giàu có
đối với những người nghèo khổ. Trong khi miêu tả một cách chân
thực cuộc sống, các nhà văn hiện thực đã lên tiếng, phê phán
và tố cáo xã hội tư sản, lên án ma lực của đồng tiền, lên
án cái đạo đức giả của giai cấp tư sản. Các nhà văn hiện
thực phê phán đã cố gắng xây dựng những điển hình, những nhân
vật mà tính cách hình thành và phát triển gắn liền với một hoàn
cảnh điển hình. Các nhà văn của dòng văn học này đã có công
phát triển và hoàn thiện loại tiểu thuyết xã hội. Ðó là một
bức tranh rộng lớn về cuộc sống, một bộ bách khoa toàn thư
về nghệ thuật của thế kỷ XIX.
2.3.
Các nhà văn tiêu biểu:
-Pháp:
văn học hiện thực Pháp thế kỷ XIX phát triển rực rỡ, nhất là
những năm 30, 40 của thế kỷ XIX. Những đại biểu ưu tú của dòng
văn học này là Standhal với tác phẩm
Ðỏ và Ðen; Mérimée với Colomba, Carmen; Balzac với bộ Tấn
trò đời; Flaubert với Bà Bovary.
-
Anh: Dickens là nhà văn hiện thực phê phán lớn của Anh thế kỷ
XIX, ông đã miêu tả một cách tài tình xã hội Anh nửa đầu
thế kỷ XIX. Các tác phẩm lớn của ông là: Ngôi nhà lạnh lẽo,
Thời buổi khó khăn, Cô bé Doris, David Copperfield...
Ngoài
ra còn có Thackeray với Hội chợ phù hoa; Những người Virginie,
Denis Duval...
-
Nga: Puskin, Gogol, Lep Tônxtoi, Doxtoiepxki... là những nhà văn hiện
thực lớn của Nga thế kỷ XIX, sống trong thời kỳ sôi động cách
mạng ở Nga, đã có những đóng góp lớn đối với nền văn học
Nga.
II. NGHỆ THUẬT |
Cùng
với văn học, thế kỷ XIX là một thế kỷ nổi bật với những
thành tựu lớn về nghệ thuật.
1.
Âm nhạc:
Những
thiên tài âm nhạc như: Beethoven, Bach, Mozart, Chopin, Tchaicôvxki,
Wagner ... đã để lại cho nhân loại những tác phẩm âm nhạc
bất tử. Các nhà soạn nhạc thế kỷ XIX đã vượt qua những định
luật cổ điển, những sáng
tác của họ làm cho thính giả cảm động đến rơi lệ, hoặc say
sưa với những điệu nhạc mới lạ, những tấu khúc rung động.
Thành công tuyệt đỉnh của âm nhạc thế kỷ XIX là những nhạc
kịch của Wagner. Ông đã biến đại ca kịch thành một tổng hợp
của mọi nghệ thuật.
2.
Hội họa:
Chủ
nghĩa lãng mạn cũng ảnh hưởng lớn đến hội họa thế kỷ XIX.
Nền hội họa mới đã thóat ly khỏi lối họa theo kiểu mẫu, đi
tìm một phong cách tự do hoặc những phong cách trữ tình. Nổi
tiếng với trường phái này là Eugene Delacroix, Jean Auguste Ingres,
Turner, Van Goth...
3.
Ðiêu khắc:
Thế
kỷ XIX là một thời đại không mấy xuất sắc về điêu khắc
tuy thời kỳ này có rất nhiều sản phẩm điêu khắc. Ở Châu Âu,
điêu khắc tương đối khá nhất là ở Paris với những công trình
điêu khắc trên Khải hoàn môn và những dinh thự khác. Các nhà điêu
khắc Pháp như: Rodin và Maillol bắt đầu gạt bỏ những tiêu
chuẩn của thời đại và tìm cách giản dị hóa, tăng khí lực
cho những tác phẩm của họ.
4.
Kiến trúc:
Thế kỷ XIX là một thế kỷ hỗn loạn về kiến trúc; người ta sử dụng nhiều kiểu kiến trúc khác nhau trong xây dựng: xây chùa kiểu Trung Hoa, Kim tự tháp kiểu Ai Cập, đền kiểu Hy Lạp, các trường đại học thì theo nghệ thuật Gothique...
III. KHOA HỌC |
Trong
mấy mươi năm đầu của thế kỷ XIX, sự phát triển của khoa
học tự nhiên và xã hội đã đạt những thành tựu đáng kể.
Kết quả trực tiếp của nó là sự phát triển của đại công
nghiệp và kỹ thuật.
1.
Khoa học tự nhiên:
-
Về hóa học: thành tựu quan trọng nhất là học thuyết phân tử
- nguyên tử. Quan điểm về thuyết nguyên tử được nhà bác học
Nga Lô-mô-nô-xốp tiến hành nghiên cứu và được bổ sung bằng
những thí nghiệm khoảng cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX
nhờ việc phát hiện
ra các qui luật về thành
phần hóa học của
vật chất.
Nhà hóa học Men-dê- lê-ep đã vạch ra con đường khám phá các
nguyên tố hóa học mới. Ông đã lập ra bảng kê về các nguyên
tố hóa học.
-
Về điện lực: đã có những nghiên cứu về dòng điện và các
qui luật của nó, đồng thời người ta phát hiện ra những tác
dụng hóa học của điện và nghiên cứu mối liên hệ giữa các
hiện tượng hóa học và điện học. Người có công trong những công
trình về điện là nhà bác học Anh Joule và nhà bác học Ðức
Mayer.
-
Về sinh vật: nhà sinh vật học Tiêp Khắc Pourkinge đã đề ra
học thuyết tế bào. Trong sinh học, học thuyết tiến hóa của
Darwin là một học thuyết có tác dụng lớn, nó đã lật đổ quan
niệm về tính cố định và bất biến của tự nhiên. Học
thuyết của Darwin đã ảnh hưởng lớn đến việc xây dựng quan
điểm biện chứng về tự nhiên.
Những
thành tựu của khoa học tự nhiên cho thấy mối liên hệ phổ
biến giữa các hiện tượng tự nhiên, khẳng định những hình
thức khác nhau của vật chất đều vận động, phát triển và
chuyển hóa. Những thành tựu ấy đem lại một nhận thức mới
cho con người về giới tự nhiên, tạo nên một thế giới quan
mới, thế giới quan duy vật biện chứng trong tự nhiên.
2.
Khoa học xã hội:
Triết
học và xã hội học thế kỷ XIX phát triển theo một con đường
phức tạp và đầy mâu thuẫn. Triết học và văn học thế kỷ
XVIII, XIX đã tin tưởng vào lý tính, đề cao tự do, chống mọi hình
thức áp bức của vương quyền và giáo hội. Triết học Khai sáng
thế kỷ XVIII được xem là hệ tư tưởng của giai cấp tư sản.
Sau đó, vào thế kỷ XIX, Marx và Engels đã đề ra học thuyết
mới về đấu tranh của giai cấp công nhân, đó là một triết
học khoa học và là hệ tư tưởng của giai cấp vô sản. Sự ra
đời của chủ nghĩa Marx đánh dấu một bước chuyển cách mạng
trong lịch sử tư tưởng và lý luận, ảnh hưởng sâu sắc đến
các ngành khoa học khác (Xem chương IV).
VI. KỸ THUẬT |
1.
Cơ giới:
Thế
kỷ XIX được mệnh danh là thế kỷ của máy móc, sắt và động
cơ hơi nước. Máy móc ra đời là cơ sở vật chất, kỹ thuật
của sự chuyển biến từ công trường thủ công đến công
nghiệp máy móc, đưa chủ nghĩa tư bản lên giai đoạn phát triển
công nghiệp. Máy dệt và máy hơi nước bắt đầu phát triển ở
Anh vào cuối thế kỷ XVIII, sau đó lan khắp châu Âu và Bắc Mỹ.
2.
Giao thông - liên lạc:
Việc
phát minh ra máy hơi nước đã làm cho giao thông liên lạc có
những biến đổi đáng kể .
1802:
Ðầu máy xe lửa chạy bằng hơi nước được chế tạo ở Anh
chạy trên đường lát đá.
1807:
Fulton đã thiết kế tàu thủy chạy bằng động cơ hơi nước.
1814:
Stepheson chế tạo ra đầu máy xe lửa cải tiến kéo được 8 toa và
chạy 6 km/h. Năm 1825 ở Anh khánh thành đường xe lửa đầu tiên.
Từ đó, xe lửa có một công dụng đáng kể trong lĩnh vực công
nghiệp và giao thông.
Cuối
thế kỷ XVIII, có những cuộc thí nghiệm bay bằng khí cầu ở Nga
và Pháp. Năm 1783, anh em Montgolfier đã thực hiện một chuyến bay
bằng khí cầu bơm bằng khí nóng, một trong hai người đã phát
minh ra dù nhảy.
Máy
điện tín được phát minh ở Nga và Mỹ vào giữa thế kỷ XIX,
nhờ đó việc liên lạc được xa và nhanh. Năm 1844, Morse
phát minh ra máy điện báo viết với một hệ thống ký
hiệu riêng gồm gạch và chấm.
3.
Nông nghiệp:
Nhờ
những thành tựu về khoa học, phương pháp canh tác và công cụ
sản xuất được cải tiến. Phân bón hóa học và máy nông
nghiệp được sử dụng rộng rãi trên đồng ruộng làm tăng năng
suất và sản lượng cây trồng.
4.
Quân sự:
Kĩ
thuật quân sự cũng có những tiến bộ đáng kể . Ðại bác có nòng
trơn, bằng đồng và nạp đạn
bằng miệng được thay bằng đại bác thép, nòng có rãnh, nạp đạn
phía sau bằng qui lát. Súng hơi và súng có cơ bẩm chuyển động
được phát minh và sử dụng rộng rãi. Các loại thuốc súng
mạnh như: mìn, nitơrô glixerin làm giảm nhẹ trọng lượng của đầu
đạn và của súng được áp dụng trong lĩnh vực quân sự để
bắn được xa hơn.
Thủy
quân cũng được cải tiến. Tàu sắt với động cơ hơi nước
được sử dụng trong chiến tranh. Giữa thế kỷ XIX, thiết giáp
hạm với ngư lôi chìm đã bắt đầu xuất hiện. Khí cầu cũng
được sử dụng trong chiến tranh.
Tóm
lại, thế kỷ XIX là thời kỳ thắng lợi của chủ nghĩa tư
bản. Nó đánh dấu bước phát triển cao của kinh tế tư bản
chủ nghĩa đồng thời còn có những thành tựu đáng kể trong
mọi lĩnh vực của sinh hoạt vật chất và tinh thần của nhân
loại. Những thành tựu này phải kể đến sự đóng góp của đông
đảo quần chúng nhân dân và các nhà khoa học. Họ đã mày mò, khám
phá ra những qui luật, những thành tựu mới, đóng góp vào kho tàng
văn minh nhân loại.