(Vài
suy nghĩ về vấn đề quyền con người trong Văn học phương Tây)
Vấn đề quyền con người hay những vấn đề liên quan đến
quyền con người chính lànội dung thiết yếu
của văn học ngay từ khởi thủy, khi văn học vừa mới hình thành,
bởi không ai phủ nhận định nghĩa nổi tiếng của Macxim Gorki: Văn
học là nhân học.
Xem xét lịch sử văn học của con người, từ khởi thủy đến
nay, từ phương Ðông sang phương Tây là một việc làm vượt quá
khả năng cho phép trong khuôn khổ một bài nghiên cứu ngắn. Do đó
người viết chỉ xin được giới hạn trong việc nêu lên vài suy
nghĩ về vấn đề quyền con người trong văn học phương Tây từ
cổ đại đến nay.
Ðiều đơn giản là hầu như bất cứ kiệt tác văn chương
nào của nhân loại cũng đều đề cập đến một hay nhiều
quyền của con người, mà chúng ta có thể căn cứ vào bản tuyên
ngôn toàn thế giới về nhân quyền ra ngày 10 tháng 12 năm 1948
của Liên Hợp Quốc đã quy định,
trong đó, có những quyền căn bản như: Mọi người sinh ra đều
tự do và bình đẳng về các quyền. Mọi người đều vốn có lương
tâm và lý trí và phải tác động lẫn nhau theo tinh thần thiện chí.
(Ðiều 1), Mỗi người đều chính đáng được hưởng tự do và các
quyền mà tuyên ngôn này quy định, không có mọi sự phân biệt,
kể cả phân biệt về chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn
giáo. . . (Ðiều 2), Mỗi người đều có quyền sống, tự do và an
toàn cá nhân (Ðiều 3), Không ai phải chịu chế độ nô lệ hay
bị nô dịch. . .(Ðiều 4), Không ai phải chịu tra tấn hay xử
sự tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ thấp nhân phẩm. (Ðiều 5),
Mọi người đều có quyền bình đẳng trước
pháp luật. (Ðiều 6). . .
Từ thời Cổ đại, quyền con người đã xuất hiện trong
những tác phẩm anh hùng ca vĩ
đại của Homère, các vở bi kịch xuất sắc của Eschyle, Sophocle,
Euripide. Ðây đều là những sáng tác nêu lên những vấn đề
lớn lao của nhân loại: Tâm tư, tình cảm, hành động của con người
thời Cổ đại trong chiến tranh, trong hòa bình (Iliade, Odyssée);
cuộc đấu tranh cho tự do và
hạnh phúc của con người(Prométhée bị xiềng); cuộc đấu tranh
giữa con người và số mệnh bi thảm (Oedipe làm vua); thân phận người
phụ nữ và ước mơ được quyền sống bình đẳng, hạnh phúc
của họ ( Médeé). . . Câu chuyện nàng Médée bị chồng phụ bạc
trắng trợn đã nổi giận giáng một đòn trả thù khủng khiếp và
độc ác xuống người chồng chính là lời kêu gọi xã hội hãy
quan tâm hơn đến người phụ nữ của tác giả Euripide.
Thời Phục hưng, dưới ảnh hưởng của chủ nghĩa Nhân Văn
(Humanism), một nền văn học Lấy con người làm trung tâm đã phát
triển rực rỡ và để lại nhiều thành tựu chói ngời trong kho tàng
văn học nhân loại. Trào lưu văn học Nhân Văn chủ nghĩa chính là
sản phẩm tinh thần của thời đại Phục hưng, thời đại mà
Anghen đã gọi là Thời đại khổng lồ. Nó đã chung đúc lại
những yêu cầu và khát vọng muốn tự giải phóng của con người
thời đó thoát khỏi những xiềng xích trói buộc của Trung cổ,
Phong kiến và nhà thờ. Theo một định nghĩa của Vônghin, chủ nghĩa
Nhân văn là toàn bộ những quan điểm đạo đức và chính trị bắt nguồn không
phải từ cái gì siêu nhiên kỳ ảo, từ những nguyên lý ngoài đời
sống của nhân loại mà từ con người tồn tại thực tế trên
mặt đất với những nhu cầu, những khả năng trần thế và
hiện thực của nó, và những nhu cầu, những khả năng ấy đòi
hỏi phải được phát triển đầy đủ, phải được thỏa mãn.
Bên cạnh đó, hàng loạt những phát biểu của các nhà Nhân
Văn chủ nghĩa khác cũng đề cập đến cùng một nội dung trên:
Con người là kiểu mẫu và kích thước để đo lường vạn
vật(Prôtagôrax), hoặc Kỳ diệu thay là con người. Nó cao quý làm
sao về mặt lý trí. Nó vô tận làm sao về
mặt năng khiếu. Về hình dong và dáng điệu nó mới giàu ý nghĩa
và đáng chiêm ngưỡng biết bao. Về nhận thức nó như thiên
thần. Về hành động nó khác nào thượng đế. Thật là vẻ đẹp
của thế gian, kiểu mẫu của muôn loài.(Hamlet Shakespeare).
Xuất
phát từ tinh thần đề cao, quý trọng con người của chủ nghĩa
Nhân Văn, văn học thời Phục hưng đã lên án tất cả những thành
kiến cổ hủ, những tín niệm lỗi thời kìm hảm, áp chế cuộc
sống vật chất lẫn tinh thần của con người, từ thứ triết lý
khắc kỷ, khổ hạnh, đi ngược lại quyền sống tự nhiên của
con người của thơ ca thời Trung cổ:
Trần gian là đại lộ đầy đau khổ
Mà chúng nhân là khách bộ hành đi tới đi lui
Chết là chấm dứt những khổ đau trần thế
Hoặc:
Ðây không phải là căn nhà êm ấm, đây chỉ là một cõi
hoang vu
Ði
đi, đi đi, mục súc rời chuồng
Nhớ cõi này, nhìn lên, cảm ơn
thượng đế (Chaucer)
đến
nhân sinh quan phong kiến phản động, cho rằng sự cao quý hay thấp
hèn của con người chính từ dòng máu, đẳng cấp mà ra.Văn học
Phục hưng đã kịch liệt phản bác những quan niệm, triết lý sai
lầm này song song với ca ngợi những gì thuộc về quyền sống
tự nhiên của con người, đặc biệt là quyền tự do cá nhân, qua
hàng loạt tác phẩm từ thơ ca của Ronsard (Pháp); truyện ngắn
của Boccaccio (Ý); tiểu thuyết của Rabelais (Pháp), Cervantes (Tây
Ban Nha) đến kịch của Shakespeare (Anh). . .
Ta không thể nào quên được những câu thơ rực rỡ, tràn
ngập lòng yêu đời vui sống của Ronsard:
Này em, cùng nhau ta ra xem dóa hoa hồng
sáng nay vừa hé nở
tấm áo đỏ rực dưới ánh trời trong
Chiều nay hoa có còn giữ được
Nguyên nếp áo tươi thắm hoa hồng?
. . .
Vậy thì em ơi nếu em nghe anh
Khi ngày xuân đang độ mơn mởn tươi xanh
Hãy hái lấy tuổi thanh xuân
Kẻo rồi đấy, sẽ như đóa hoa này
Tuổi già sẽ làm tàn phai sắc đẹp của em. (Ðoản Thi,
quyển 1, 1553)
Thơ tình yêu của Ronsard thật xa lạ với tư tưởng tôn giáo
và khắc kỷ, thần bí của thơ ca Trung cổ. Nó thấm đượm tinh
thần của thời đại Phục hưng. Ðó là lòng yêu đời, yêu người
và sự khẳng định tình yêu là niềm hạnh phúc tuyệt diệu trên
trần thế cũng như yêu đương là một trong những quyền căn bản
của con người.
Cùng
với thơ tình Ronsard, hài kịch Shakespeare cũng góp phần thể hiện
những quan niệm yêu đương mới mẻ trong thời đại Phục hưng.
Quyền tự do lựa chọn bạn đời, sự hấp dẫn về dong mạo
thể xác, vẻ đẹp chân chính của tình yêu. . .là những đề tài
chủ yếu của các vở: Romeo và Juliet, Chàng thương gia thành
Venise, Giấc mộng đêm hè, Ðêm thứ mười hai. . . , trong đó tinh
thần của điều 16 của bản tuyên ngôn nhân quyền hầu như được
thể hiện trọn vẹn: Nam hay nữ đến
tuổi thành niên đều có quyền kết hôn và xây dựng gia đình, không
có bất kỳ hạn chế nào về chủng tộc, dân tộc hay tôn giáo. .
. Hôn nhân chỉ được giao ước với sự thỏa thuận tự do và hoàn
toàn tự nguyện của cả hai vợ chồng tương lai. . .
Quyền
con người còn được khẳng định một cách táo bạo qua các vở
kịch khác của Shakespeare. Một trong những vấn đề nóng hổi
của nhân loại qua bao thời đại đó là vấn đề kỳ thị chủng
tộc và nạn phân biệt giai cấp đã được thiên tài Shakespeare nêu
lên ngay từ thời Phục hưng. Mối tình tuyệt đẹp của dũng tướng
da đen Othéllo với tiểu thư quý tộc da trắng Desdémona phải chăng
là một trong những minh chứng hùng hồn của những cuộc tình không
biên giới, không phân biệt màu da, chủng tộc? Lời phát biểu đầy
phẫn uất của Shylock, người thương gia Do Thái trong vở kịch Chàng
thương gia thành Venisechính là lời buộc tội gay gắt những thành
kiến phân biệt chủng tộc, tôn giáo đương thời: Hắn ta đã làm
tôi mất thể diện,. . . hắn đã cười những vụ mất mát của
tôi, đã chế giễu những lời lãi của tôi, đã khinh bỉ dân
tộc tôi. . . Và tất cả cái đó, vì lẽ gì? Vì tôi là một người
Do Thái. Một người Do Thái không có mắt hay sao?. Một người Do
Thái không có hai tay, không có phủ tạng, không có giác quan, không
có cảm giác, không có tình cảm hay sao?. Hắn không được nuôi dưỡng
bằng cùng một thứ thức ăn, không bị thương bởi cùng một
thứ vũ khí, không bị mắc cùng những thứ bệnh, không được
chữa khỏi bằng cùng một thứ thuốc men, không được nóng ấm
bằng cùng một thứ mùa hè, giá lạnh bởi cùng một thứ mùa đông
như một người theo đạo Cơ đốc hay sao?( Chàng thương gia thành
Venise, hồi II, cảnh IX).
Ðúng
là văn học của thời đại Phục hưng đã đấu tranh cho những
quyền lợi chính đáng của con người: Quyền được ăn, uống, yêu
đương, quyền được thụ hưởng những thú vui vật chất lẫn
tinh thần và đặc biệt là quyền được đối xử bình đẳng. Chính
nhu cầu chính đáng này đã được văn học các thời đại sau
kế thừa và phát huy một cách tích cực. Một trong những tác
giả đã suốt đời dùng ngòi bút đấu tranh cho sự bình đẳng
của con người là Jean Jacques Rousseau của văn học Pháp, thế kỷ
XVII.
Ngay
từ tác phẩm đầu tay của ông, Luận về khoa học và nghệ
thuật, những quan niệm đúng đắn của ông về mối quan hệ
giữa người và người trong xã hội tư hữu đã xuất hiện: Sự
xa hoa nuôi
sống một trăm người giàu ở thành phố nhưng làm một trăm nghìn
người ở thôn quê phải chết đói. Tiền bạc lưu thông trong tay
những kẻ giàu có và thợ thủ công để cung ứng cho họ những
thứ thừa thải vô dụng nên người dân cày không có tiền để
sinh sống. Dân cày không có áo mặc vì kẻ giàu cần những dãi
trang sức. Chỉ riêng việc phí phạm những vật phẩm dùng để nuôi
sống con người cũng đủ khiến cho sự xa hoa trở thành ghê tởm
đối với nhân loại. Trong nhà bếp của chúng ta cần có của ngon
vật lạ nên bao người ốm thiếu thốn chất bổ dưỡng. Trên bàn
ăn của chúng ta cần có các loại rượu nên nông dân chỉ uống nước
lã. Chúng ta cần có phấn rắc lên bộ tóc giả nên bao kẻ nghèo
không có bánh ăn.
Khi
nêu lên được tình trạng bất bình đẳng giữa người và người
trong xã hội có giai cấp, tác giả Khế ước xã hội cũng đồng
thời dề nghị những giải pháp cho tình trạng trên. Rousseau viết
Con người sinh ra tự do, nhưng đâu đâu nó cũng ở trong xiềng xích,
vậy phải xây dựng xã hội trên những nguyên tắc gì để đảm
bảo tự do và bình đẳng cho mọi người? Theo Rousseau, xã hội lý
tưởng là xã hội xây dựng trên cơ sở một khế ước được
tất cả mọi thành viên tự nguyện tuân theo. Căn cứ khế ước
ấy, mỗi người là một bộ phận không thể chia cắt được
của cộng đồng; mọi quyền lợi của cá nhân đều phụ thuộc vào
quyền lợi chung. Ngược lại, khế ước ấy sẽ có khả năng đảm
bảo cho mỗi thành viên quyền lợi của mình như tự do, bình đẳng,
tư hữu. . .
Tóm
lại, văn học mọi thời đại đã thể hiện mối quan tâm sâu
sắc đến những quyền lợi thiết yếu của con người. Tuy nhiên,
để có được quyền con người điều trước tiên là phải được
công nhận là con người trước đã. Ðể được là con người,
thì vấn đề độc lập của dân tộc, chủ quyền của đất nước
cũng phải được đặt ra. Và điều đó, xưa nay những tác giả vĩ
đại đều thấy rõ. Từ bài thơ thần của Lý Thường Kiệt
(Việt nam) đến bài thơ của một thi sỹ Malawian tên là Felix
Mnthalie nhan đề :Ðiều trước tiên (First thing first)