CHƯƠNG
III : LỊCH
SỬ CHẾ ÐỘ CHIẾM HỮU NÔ LỆ PHƯƠNG TÂY CỔ ÐẠI
A.
KHÁI QUÁT VỀ XÃ HỘI CỔ ÐẠI HY-LAP |
Nếu
như hiện nay người ta còn bàn cải ở phương đông cổ đại đã
từng trải qua phương thức sản xuất chiếm hữu nô lệ hay phương
thức sản xuất châu Á, thì đã từ lâu, sự tồn tại của phương
thức sản xuất chiếm hữu nô lệ ở Hy Lạp và La Mã đều đã
được các nhà sử học Mác-Xít thừa nhận và đưọc coi đó là
những xã hội chiếm hữu nô lệ có tính chất diển hình.
Việc
nghiên cứu lịch sử cổ đại Hy Lạp và La Mã cần phải làm sáng
tỏ tính chất điển hình của hình thái kinh tế-xã hội đó, làm
sáng tỏ điều đó sẽ góp phần chứng minh qui luật của sự phát
triển lịch sử xã hội loài người.
Chế
độ chiếm hữu nô lệ Hy-La có tính chất điển hình không phải
vì ở đây kinh tế hàng hóa-tiền tệ phát triển mạnh. Tính
chất điển hình của xã hội chiếm hữu nô lệ ở Hy Lạp và La
Mã thể hiện ở số lượng đông đảo của nô lệ trong xã hội
và nhất là vai trò quan trọng của nô lệ trong các ngành sản
xuất kinh tế nông nghiệp và mậu dịch hàng hải. Ơí đây, sự bóc
lộc lao động của nô lệ trở thành quan hệ bóc lộc chủ đạo.
Trong
xã hội cổ đại Hy-La, sự phân chia ranh giới giữa hai giai cấp
chủ nô và nô lệ rất rỏ rệt và giai cấp chủ nô đã bóc lộc
nô lệ hết sức tàn nhẩn. Ơí đây, đã từng tồn tại nhiều
kiểu, nhiều hình thức nhà nước khác nhau: Các kiểu nhà nước
đó đều có đảm bảo quyền dân chủ cho người dân tự do ở
những mức độ cao thấp khác nhau, nhưng tất cả đều là công
cụ của giai cấp chủ nô dùng để duy trì sự thống trị, sự áp
bức bóc lộc của quần chúng nô lệ đông đảo.
Mâu
thuẩn giai cấp giữa chủ nô và nô lệ hết sức sâu sắc trong xã
hội cổ đại Hy-La. Ðiều này đã quyết định phạm vi rộng
rải, hình thức phong phú và mức độ ác liệt của các cuộc đấu
tranh của nô lệ và dân nghèo chống lại giai cấp chủ nô thống
trị. Cuộc đấu tranh này là yếu tố quyết định dẫn tới sự
suy vong của Tây bộ đế quốc chiếm hữu nô lệ La Mã ở thế
kỷ thứ V, đưa xã hội Tây Âu sang một thời đại mới: thời đại
phong kiến.
Tóm
lại, tính chất điển hình của hình thái kinh tế-xã hội chiếm
hữu nô lệ ở Hy Lạp và La Mã biểu hiện ở số lượng đông đảo
và ở vai trò chủ đạo của nô lệ trong nền sản xuất kinh tế,
ở mối quan hệ bóc lột, chủ yếu giữa chủ nô và và nô lệ,
ở tính chất chuyên chính của bộ máy nhà nước chủ nô, ở
cuộc đấu tranh giai cấp một mất một còn giữa chủ nô và nô
lệ...
B.
HY LẠP |
I. SỰ TAN RÃ CỦA XÃ HỘI THỊ TỘC VÀ SỰ HÌNH THÀNH NHÀ NƯỚC HY LẠP |
1. sự tan rả của xã hội thị tộc ở Hy Lạp: thời Hô-me
(thế kỷ XI-IX trước công
nguyên).
Ðất
đai của người Hy Lạp ngày xưa so với đất đai của người
Hy-Lạp ngày nay rộng hơn nhiều. Nó bao gồm miền nam bán đảo
Ban-Kan, các đảo ở biển Ê-giê và ven biển phía tây của Tiểu
Á. Miền nam bá đảo Ban Kan tức là miền lục địa của Hy Lạp.
Về mặt địa hình có thể chia làm ba khu vực khác nhau: Trung bộ,
Bắc bộ và Nam bộ. Người Co-ret có một đội chiến thuyền và
thương thuyền mạnh, nhờ đó họ đã chiếm được nhièu đảo trên
biển Ê-giê và mở rộng ảnh hưởng của họ đến miền ven
biển phía nam của bán đảo Hy Lạp, nhiều di tích của sung điện,
đền đài, công trường, kho tàng trong đó có nhiều di vật mỹ
nghệ và đủ các loại đồ dùng của tần lớp vương công quí
tộc, chứng tỏ trình độ khá cao của nền văn minh ở đảo Cơ-ret.
Trạng thía sinh hoạt vật chất và tinh thần của người
Hy-Lạp ở những thế kỹ XI-Ĩ t.c.n., được phản ánh trên những
nét lớn trong hai tác phẩm thơ ca I-li-at và Ô-đi-xê, tục truyền
của một nhà thơ tên là Hô me, sinh ra ở Tiểu Á.
Tập
I-li-at là một bản anh hùng ca chiến trận gồm có khỏang 15.000 câu
thơ, thuật lại cuộc chiến tranh ở Hy-Lạp và người ở thành Tơ-roa,
một thành nằm ở bờ biển phía tây của Tiểu Á. Tập thơ chủ
yếu kể lại những câu chuyện xãy ra trong năm cuối cùng, năm
thứ 10 của chiến
Qua
hai tập anh hùng ca nói trên, người ta biết rằng ở thời đại Hô-me
(thế kỷ XI-IX t. c. n.), mặc dù đồ đồng thau còn được dùng
rộng rãi, song đồ sắt, chủ yếu là vũ khí bằng sắt, đã
xuất hiện.
Xã
hội Hy-Lạp ở thời đại Hô-me sống dựa trên cơ sở nền kinh
tế tự nhiên, tự cung tự cấp. Ngành kinh tế chủ yếu là chăn
nuôi; súc vật được dùng làm đơn vị đo giá trị, nông nghiệp
còn giử vai trò thứ yếu Xã hội hy lạp lúc này chưa phân chia
giai cấp và chưa có nhà nước; những cơ quan hành chính và tư pháp
chưa tách ra hỏi quần chúng và nhân dân. Quyền lực công cộng đang
dần dần tập trung trong tay các tù trưởng hay thủ lỉnh
(basileus), nhưng quần chúng thành viên công xã vẫn còn giử quyền
bình đẳng và dân chủ của mình. Tầng lớp quí tộc không thể
xem nhẹ quần chúng nhân dân, không thể không tôn trọng ý chí
của quần chúng binh sĩ, nhất là trong thời kỳ chiến tranh, vì quí
tộc buộc phải triệu tập đại hội nhân dân vũ trang mới có
thể ra những quyết định quan trọng. C. Mác và F. Ăng-ghen gọi đó
là chế độ dân chủ quân sự. Chính chế độ dân chủ quân sự
đó là chế độ tồn tại trong thời kỳ quá độ từ xã hội
thị tộc chuyển sang xã hội chiếm hữu nô lệ ở Hy-Lạp.
2.
Những chuyển biến lớn trong xã hội Hy Lạp trong thời đại Hô-me
và công cuộc di thực của người
Hy Lạp (thế kỷ VIII-VI tr. C. n).
Cuối
thời đại Hô-me, xã hội Hy Lạp đã trải qua những biến đổi
quan trọng trong chế độ kinh tế và xã hội của mình. Lúc này đã
xuất hiện chế độ tư hữu. Những gia đình giàu có tách ra
khỏi thị tộc ngày càng nhiều và dựa vào ưu thế kinh tế của
mình, đã dần chiếm đoạt về mình nhiều nô lệvà hầu hết các
tư liệu sản xuất của công xã thị tộc, như ruộng đất và gia
súc. Nông dân tự do của công xã ngày càng bị tước đoạt hết
ruộng đất, bị bần cùng hóa, mắc nợ nần, nên ngày càng bị rơi
vào tình trạng lệ thuộc, trước hết là lệ thuộc quí tộc,
thị tộc.
Lúc
này ngoài nông nghiệp và chăn nuôi, thủ công nghiệp và thương
nghiệp, đặc biệt là buôn bán bằng đường biển phát triển
nhanh chóng. Một số người kinh doanh thương nghiệp đã làm giàu và
đã có khả năng đem tiền lậu ruộng đất mới. Ruộng đát từ
nay không chỉ có quí tộc thị tộc mới chiếm hữu được ;
ruộng đất từ nay cũng thuộc về bất cứ ai có tiền tậu lấy.
Trong
sự phân hóa của xã hội Hy Lạp lúc này, vai trò của mậu dịch
hàng hải và của công cuộc di thực là vô cùng trọng yếu. Thế
kỷ XIII tr. c. n., người Hy Lạp bắt đầu vượt biển đi tìm đất
thực dân ở ở các miền ven bờ biển Hắc hải và Ðịa trung
hải. Phong trào người Hy Lạp đi tìm đất thực dân là do những
nguyên nhân trong nội bộ xã hội Hy
Lạp thúc đẩy. Sự tan rã của quan hệ thị tộc và sự phân
hóa giai cấp kịch liệt giữa giàu và nghèo làm cho quần chúng nông
dân lao động bị bần cùng hóa, không có tấc đất cấm vùi.
Muốn tránh khỏi thân phận nô lệ, họ đã rời bỏ quê hương, lũ
lượt kéo nhau ra nước ngoài tìm kế sinh nhai, sự đi lại buôn bán,
kích thích thêm công cuộc di thực.
3.
Sự xuất hiện các quốc gia-thành thị chiếm hữu nô lệ ở Hy
Lạp.
Trong
quá trình chuyển biến từ công xã thị tộc sang chế độ nhà nước,
xã hội Hy Lạp hầu như hoàn toàn không bị quấy nhiễu bởi bạo
lực ngoại lai hoặc nội bộ. Nhà nước của người Hy Lạp đã
trực tiếp thoát thai dần dần từ chế độ công xã thị tộc.
Sự phát triển kinh tế chính trị của các quốc gia-thành thị Hy
Lạp là một thí dụ điển hình chứng tỏ tính tất yếu của quá
trình chuyển biến từ công xã thị tộc sang chế độ nhà nước.
Ðến
thế kỷ VIII-VII tr. C. n., nhà nước của Hy Lạp đã ra đời, như
trên đã nói, sự tích lũy tài sản tư hữu, sự xuất hiện và
trao đổi hàng hoá và tiền tệ, sự tan rã của nền kinh tế tự
nhiên, sự phân hóa giai cấp giữa giàu và nghèo trong xã hội, sự
thôn tính đất đai, việc sử dụng lao động của người nô
lệ,.... những điều đó khiến cho chế độ thị tộc là một
chế độ lấy quan hệ huyết thống làm cơ sở, phải đi đến
chổ tan rã.
4.
Nhà nước Xpac.
Xpac
nằm ở vùng đồng bằng thuộc bán đảo Pê-lô-pô-ne, tạo nên
bởi con sông Eurotas, xung quanh có nhiều dãy núi bao bọc. Ðất đai
thuạn tiện cho phát triển nông nghiệp.
Tổ
chức nhà nước Xpac rất đặc biệt. Bọn quí tộc quân sự Xpac
cử ra hai vua có quyền thế tập, quyền lực ngang nhau, mục đích
để kìm chế lẫn nhau. Thời bình vua giữ việc tế lể, xét xử
những vụ kiện tụng, tham gia hội đồng trưởng lảo. Thời
chiến, vua thống trị quân đội và được giao quyền hạn rất
lớn. Vua được tôn kính rất mực, nhưng quyền hành thì rất ít.
Ðại hội nhân dân gồm toàn thể những thành viên trai tráng người
Xpac từ 30 tuổi trở lên, là cơ quan quyền lực tối cao, có
quyền phê chuẩn những nghị quyết quan trọng của hội đồng trưởng
lảo về các vấn đề tuyên chiến và nghị hòa. Hội đồng trưởng
lảo, gồm 30 vị bô lảo ngoài 60 tuổi có danh vọng nhất trong xã
hội người xpac, là cơ quan lập pháp.
Quí
tộc quân sự Xpac là những bọn xâm lược rất dã man. Chúng thường
dùng chính sách vũ lực kết hợp với thủ đoạn lôi kéo, dể
biến thành bang lân cận thành những nước đồng minh chư hầu
của chúng. Cuối thế kỷ VI tr. c. n., hầu hết các thành bang Pê-lô-pô-ne
và các đảo lân cận đều chịu khuất phục Xpac và đèu chịu
sự lảnh đạo của Xpac về quân sự, chính trị ngoại giao. Bởi
vậy, trong lịch sử, đồng minh các nước thành lập năm 530 tr. c.
n., do Xpac cầm đầu được gọi là đồng minh Pê-lô-pô-ne (bao
gồm cả Cô-rinh, Mê-ga, Ê-gin... trừ Ac-gôt). Mục đích của đồng
minh này là nhằm tranh giành quyền bá chủ với các thành bang khác
ở Hy Lạp do A-ten cầm đầu (đồng minh A-ten), đồng thời nhằm
trấn áp các cuộc bạo động của nô lệ và dân nghèo. Mặc dù,
mọi vấn đề quan trọng đều phải được bàn bạc giữa các đồng
minh, nhà nước Xpac thường tự quyết đóan lấy một mình, bất
chấp ý kiến của đồng minh.
Trong
tất cả các thành bang Hy Lạp, Xpac là một thành bang lạc hậu
nhất về kinh tế, bảo thủ và phản động nhất về chính trị.
tính chất lạc hậu và phản động đó của nhà nước Xpac không
phải là không có tác dụng kìm hảm một phần nào sự phát
triển kinh tế, chính trị và xã hội của xứ Pê-lô-pô-ne nói riêng
và của tòan bộ Hy Lạp nói chung.
Nhà
nước Xpac là dinh lũy các thế lực quí tộc phản động trên tòan
bán đảo Hy Lạp và là kẻ thù nguy hiểm nhất của phong trào
khởi nghĩa của nô lệ và dân nghèo, cũng như của phong trào dân
chủ ngày càng phát triển ở khắp các thành bang Hy Lạp.ư
II. SỰ PHÁT SINH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA NHÀ NƯỚC A-TEN (Thế kỷ VII-Vi tr. c. n.,) |
1. sự phát sinh nhà nước A-ten và sự thiết lập chế độ
cộng hòa quí tộc.
A-ten
là một quốc gia-thành thị xuất hiện vùng bán đảo At-tic,
thuộc trung bộ Hy Lạp. Nhà nước A-ten ra đời trên cơ sở thống
nhất tòan bộ dân cư ở 4 bộ lạc dưới quyền quản lý chung
của một cơ quan hành chính duy nhất, thay thế cho cơ quan quản lý
dân chủ riêng rẻ của các bộ lạc. Ðồng thời, hội nghị quí
tộc của mỗi bộ lạc cũng bị xóa bỏ và thay thế bằng đại
hội của toàn thể công dân A-ten công cuộc thống nhất có ý nghĩa
lịch sử trọng đại đó, theo truyền thuyết là do một vị anh hùng
thành A-ten lúc bấy giờ là (Thésée) thực hiện một cách hòa bình.
Tê-dê
chia toàn thể dân tự do A-ten thành 3 đẳng cấp giàu nghèo khác
nhau, không phân biệt là thuộc thị tộc hay bộ lạc nào: quí
tộc, nông dân và thợ thủ công.
Như
vậy là tổ chức thị tộc của người A-ten đã bị tan rã và nhường
chổ cho một xã hội có giai cấp; nền chính trị toàn dân của
chế độ bộ lạc củ đã nhường chổ cho nền chuyên chính của
gia cấp quí tộc thị tộc. Ðại hội nhân dân cẫn tiếp tục
tồn tại nhưng nó đã biến thành một cơ quan tư vấn. Tất cả
mọi quyền bính đều do hội đồng trưởng lão gồm đại biểu
của giai cấp quí tộc thị tộc nắm lấy. Lúc ấy vua (tức là
<<ba-di-lơt>>) cũng bị phê truất. Chín vị chấp chính
quan, chọn trong hàng ngũ quí tộc, được cử giữ những chức
vụ cao nhất trong bộ máy nhà nước A-ten.
2.
Những cải cách của Sô-lôn.
Ông
tuyên bố xóa bỏ những nợ nần, nhổ hết những thẻ cầm cố
ruộng đất khắp đồng bằng A-tic. Ông giải phóng cho những người
nô lệ vì nợ nần và cấm chỉ từ đấy không ai được gán mình
hoặc vợ con mình làm nô lệ cho kẻ khác để chuộc nợ. Cấm không
cho ký kết những văn tự lấy bản thân con nợ làm bảo đảm.
Cải
cách trên đây đã hy sinh quyền lợi của giai cấp quí tộc thị
tộc để giành lại quyền sở hữu ruộng đất về cho nông dân,
chủ nợ phải bị thiệt hại để làm lợi cho chế độ sở hữu
của những con nợ. Về phương diện đó mà nói thì cải cách đó
có một ý nghĩa cách mạng lớn lao; nó <<mở đầu cho một
loạt những cái mà người ta gọi là cách mạng chính trị và mở
đầu bằng cách xâm phạm chế độ sở hữu>>.
Cải
cách quan trọng nhất của Sô-lôn là cuộc cải cách nhầm thủ tiêu
những đặc quyền của giai cấp quí tộc thị tộc và xác định
địa vị xã hội của người công dân theo mức tài sản tư hữu
của họ. Theo cải cách đó thì tất cả công dân A-ten không phân
biệt thành phần quí, tiện, đều chia thành 4 đẳng cấp căn cứ
theo mức thu nhập hàng năm của mỗi người cao hay thấp.
Cải
cách trên của Sô-lôn đã thay đổi hẳn cơ cấu chính trị của
nhà nước A-ten. Trên cơ sở 4 bộ lạc củ, Sô-lôn thiết lập cơ
quan quyền lực mới-Hội đồng bốn trăm-mỗi bộ lạc cử ra 100
đại biểu của mình. Hội đồng bốn trăm này song song tồn tại
với hội đồng quí tộc nhưng khác hẳn về thành phần với hội
đồng này. Ðại hội nhân dân trong thời kỳ quí tộc thị tộc
nắm chính quyền, đã gần hết vai trò chính trị của nó thì nay
được khôi phục lại quyền lực củ.
Như
vậy là những cuộc cải cách trên đây của Sô-lôn đều có một
ý nghĩa tiến bộ rỏ rệt. Nó thay đổi hẳn về chế độ chính
trị xã hội củ của A-ten, đánh một đòn nặng nề về những tàn
tích của chế dộ thị tộc và sự thống trị của giai cấp quí
tộc thị tộc, tạo điều kiện cho sự phát triển của chế độ
tư hữu, đặt cơ sở cho nền dân chủ chủ nô A-ten.
3.
Chế độ chuyên quyền của Pisistrate.
Cải
cách của Sô-lôn không triệt để. Ông không đoạn tuyệt hẳn
Với giai cấp quí tộc thị tộc, mà cũng không hoàn tòan thỏa mãn
những yêu sách của quần chúng nhân dân.
Năm
560 tr. c. n., một cuộc đảo chính xãy ra ở A-ten. Pisistrate, lảnh
tụ của đảng miền núi, chỉ huy một nhóm đồng đảng dùng vũ
lực chiếm đồi A-cơ-rô-pôn làm chủ A-ten, thực hiện chế độ
chuyên quyền.
Những
cố gắng của Pisistrate chẳng bao lâu đã đưa A-ten lên địa vị
hàng đầu so với các quốc gia-thành thị khác của Hy Lạp.
Năm
527 tr. c. n., Pisistrate chết liên minh hai đảng Miền núi và Duyên
hải, đã đưa thủ lỉnh đảng Duyên hải là Clisthènes, lên sung
chức đệ nhất chấp chính quan.
4.
Những cải cách của Clisthènes.
Clisthènes
thực hiện một cuộc cải cách chính trị trong những năm 508-506
tr. c. n., nhằm dân chủ hóa trình độ cao hơn một chế độ chính
trị và xã hội ở A-ten. Cải cách quan trọng nhất của Clisthènes
là việc phân chia tất cả những người công dân A-ten theo khu
vực hành chính, căn cứ theo địa vực cư trú của họ, chứ không
còn đếm xỉa đến sự phân biệt giữa bốn bộ lạc cũ dựa trên
quan hệ huyết tộc như trước nữa.
Tòan
bộ đất đai A-tic, được chia thành 10 liên khu thay thế cho 4 khu
vực cư trú cũ của 4 bộ lạc ngày trước. Mỗi liên khu là một
đơn vị tổ chức hành chính tự trị, đồng thời cũng là một
tổ chức quân sự liên khu bầu ra thủ lỉnh của mình và bầu ra
cả tư lệnh quân đội của liên khu.
Cải
cách hành chính trên đây của Clisthènes là hòan tòan thủ tiêu
những tàn tích cuối cùng của xã hội thị tộc, xóa bỏ hẳn
ảnh hưởng chính trị mà chúng còn duy trì trong các khu vực bộ
lạc củ.
Hệ
thống tổ chức hành chánh mới theo địa vị tất nhiên dẫn đến
sự cải tổ lại các cơ quan quyền lực trong bộ máy nhà nước
A-ten. Hội đồng bốn trăm do Sô-lôn đặt ra nay bải bỏ thay thế
bằng hội đồng năm trăm đại biểu.
Ðể
ngăn ngừa mọi âm mưu đảo chính nhằm lật đổ nền dân chủ
A-ten và thiết lập chế độ chuyên quyền cá nhân như đã có
lần xãy ra dưới thời pisistrate trước đây, Clisthènes đã ban hành
đạo luật về <<chế độ bỏ phiếu bằng vỏ sò>>.
Cải
cách của Clisthènes đã chấm dứt cuộc đấu tranh trường kỳ và
ác liệt kéo dài hơn một thế kỷ giữa quí tộc thị tộc và
quần chúng nhân dân.
Tuy
nhiên với tư cách là kẻ đại diện cho quyền lợi của giới
chủ nô công thương gia, Clisthènes không ban hành một đạo luật nào
nhằm cải thiện đời sống khổ cực của dân nghèo. Tất cả
những cải cách của ông chỉ nhằm thay đổi chế độ chính trị
và bộ máy nhà nước A-ten mà thôi.
5.
Chiến tranh Hy Lạp-Ba tư (500-449 tr. c. n.,).
Nguyên
nhân của cuộc chính trị đó là âm mưu của bọn thống trị đế
quốc Ba Tư muốn bành trướng không ngừng thế lực của họ sang
phương tây, uy hiép nghiêm trọng nền độc lập của các quốc
gia-thành thị Hy Lạp ở miền Tiểu Á.
Nguyên
nhân trực tiếp dẫn đến cuộc chính trị Hy-Ba la cuộc khởi nhĩa
của nhân dân các quốc gia-thành thị Hy Lạp ở Tiểu Á, đứng đầu
là thành Mi lê, chống lại ách thống trị tàn bạo của người Ba
tư.
Thắng
lợi của Hy Lạp trong chính trị Hy-Ba là thắng lợi của tinh
thần yêu nước nồng nàn, sự mưu trí và lòng dũng cảm, ý chí
quyết chiến quyết thắng của người Hy Lạp đấu tranh để bảo
vệ nền độc lập và tự do của đất nước mình.
III.
THỜI KỲ PHÁT TRIỂN TÒAN THỊNH CỦA CHẾ ÐỘ CHIẾM HỮU
NÔ LỆ Ở HY LẠP (thế kỷ V-IV tr. c. n.,) |
1.
Sự phát triển của nền kinh tế chiếm hữu nô lệ ở Hy Lạp sau
cuộc chiến tranh Hy-Ba.
Trong
thời kỳ này, thế kỷ V-IV tr. c. n., tại những quốc gia-thành
thị tiên tiến nhất như A-ten, Ê-gin, Mê-ga, Cô-rinh, Mi-lê,... phương
thức sản xuất chiếm hữu nô lệ đã đạt đến mức hòan
chỉnh nhất và cao nhất của nó ở Hy Lạp.
Sự
phát triển thủ công nghiệp đã thúc đẩy nền sản xuất hàng hoá
và sự mở rộng quan hệ thương mại ở Hy Lạp đặc biệt là ở
A-ten trong những thế kỷ V-IV tr. c. n. Hải cảng Pi-rê của A-ten đã
trở thành trung tâm lớn nhất của của thế giới cổ đại.
2.
chế độ nô lệ ở Hy Lạp trong những thế kỷ V-IV tr. c. n.
Tại
các thành bang Hy Lạp thời bấy giờ, phương thức sản xuất
chiếm hữu nô lệ đã đạt tới đỉnh cao nhất của nó. Nếu
trong thế kỷ trước, thế kỷ VI tr. c. n.,tại các thành bang phát
triển nhất, nô lệ chưa đông lắm, thì đến bây giờ số nô
lệ tăng rất nhanh, và sang thế kỷ IV tr. c. n., dân số nô lệ đạt
tới mức tối đa của nó, số nô lệ đông hơn nhiều so với dân
tự do: 400.000 nô lệ so với 21.000 công dân A-ten. Theo Ăng-ghen, thì
ở thời kỳ hòan thịnh của A-ten nô lệ có đến 365.000 người
so với chừng 90.000 dân cư tự do. Nô lệ là lực lượng sản
xuất chủ yếu trong hầu hết các thành bang Hy Lạp ở những thế
kỷ V-IV tr. c. n., và lao động của họ được sử dụng một cách
rộng rãi trong mọi ngành sản xuất kinh tế, đặc biệt trong các
ngành thủ công nghiệp.
Ki-ôt,
Ðê-lôt, Sa-môt, Ê-phe-dơ và đặc biệt là hải cảng Pi-rê của
A-ten là những chợ buôn bán nô lệ lớn nhất ở Hy Lạp cổ đại,
hồi thế kỷ V-IV tr. c. n. Mỗi buổi sáng bọn lái buôn dắt hàng
nghìn nô lệ ra chợ, tập trung họ ở một bải đất rộng có hàng
rào vây bọc chung quanh, rồi bắt nô lệ lần lượt bước lên cái
bục caođể quảng cáo, rao hàng. Giá cả nô lệ cao, thấp, đắt
rẻ tùy theo luật cung cầu trên thị trường, tùy theo lứa tuổi,
giới tính và nghề nghiệp.
3.
Phong trào dân chủ ở Hy Lạp-cải cách của Ephialtés và của Périclés.
Cuộc
chiến thắng vẻ vang của người Hy Lạp chống quân Ba tư xâm lược
đã nâng cao niềm tin tưởng, phấn khởi và lòng tự hào dân tộc
của họ. Ðó là một nhân tố kích thích họ tiến lên một bước
Sau
chiến tranh, làm cho cuộc đấu tranh giai cấp ở Hy Lạp vô cùng
gay gắt.
Nhưng
không nơi nào phong trào dân chủ phát triển mạnh mẻ bằng ở
A-ten, cuộc đấu tranh đó nổ ra trong nội bộ giai cấp chủ nô,
giữa hai đảng: một bên là đảng bảo thủ của bọn quí tộc địa
chủ và một bên là đảng dân chủ của tầng lớp quí tộc thương
nhân, tiểu chủ, tiểu thương, thợ thủ công và dân nghèo thành
thị, kể cả thủy thủ và công nhân khuân vác bến tàu.
Chính
quyền ở A-ten lúc bấy giờ về tay những phần tử cấp tiến
nhất, đứng đầu là Ephialtés.
Ephialtés
bắt đầu thực hành cải cách dân chủ. Trước hết ông tìm cách
đánh đổ thế lực của hội đồng trưởng lão A-rê-rô-pa-giơ.
Chương
trình cải cách của Ephialtés chắc chắn phải chỉ có thể, nhưng
ông không thể thực hiện được tòan bộ chương trình cải cách
của ông, vì bọn quí tộc phản động thù địch đã ám sát ông
một cách hèn nhát (461 tr. c. n.,).
Cau
cái chết của Ephialtés đảng dân chủ vẫn tiếp tục nắm chính
quyền ở A-ten. Lảnh đạo nhà nước A-ten lúc này là Périclés. Ông
là nhà chính trị và nhà hùng biện có biệt tài và cũng là nhà
quân sự lỗi lạc, cầm đầu đảng dân chủ ở A-ten lúc này.
Trong
thời kỳ nắm chính quyền ở A-ten, Périclés và đảng của ông đã
thực hành nhiều chính sách tiến bộ có thể thỏa mãn được
phần nào những nguyện vọng và yêu cầu của tầng lớp dân tự
do bên dưới của xã hội A-ten. Ông đã mạnh dạng hòan thành chương
trình cải cách của Ephialtés đưa nền chính trị dân chủ chủ nô
ở A-ten phát triển đến mức hòan hảo nhất.
4.
cuộc đấu tranh của nô lệ chống chủ nô ở Hy Lạp.
Như
phần trên dã nói, chế độ cộng hoà dân chủ phát triển rất hoàn
hảo đó, chỉ là việc trong nội bộ tầng lớp dân tự do thuộc
giai cấp chủ nô.
Ðứng về phía đông đảo quần chúng nô lệ và kiều dân mà
nói, thì thứ <<dân chủ>> chủ đó thực chất chỉ
là một nền chuyên chính tàn bạo của giai cấp chủ nô mà
thôi. Ðiều đó là lẻ tất nhiên, vì trong xã hội có giai cấp,
bất cú một thứ <<dân chủ>> nào cũng là <<dân
chủ>> của một giai cấp. Bởi vậy, đấu tranh giai cấp là cái
đặc trưng cơ bản nhất của xã hội có giai cấp nói chung và
của xã hội chiếm hữu nô lệ nói riêng. Xã hội chiếm hữu nô
lệ ngày càng phát triển thì đấu tranh giai cấp giữa chủ nô và
nô lệ, giữa người giàu và người nghèo ngày càng gay gắt.
Hình
thức đấu tranh thông thường của nô lệ là hủy hoại công cụ
sản xuất, cướp phá mùa màng, tài sản của quí tộc, chủ nô.
Ðôi khi họ cũng tìm cách bỏ trốn, mong thoát khỏi ách áp bức
của chủ nô.
Về
sau, do sự áp bức bóc lột của bọn chủ nô ngày càng tàn bạo,
nô lệ khắp nơi đã chuyển hình thức đấu tranh tiêu cực sang hình
thức đấu tranh tích cực và quyết liệt hơn, tức là tổ chức các
cuộc bạo động hoặc khởi nghĩa vũ trang.
Cuộc
đấu tranh giữa chủ nô và nô lệ, giữa người giàu và kẻ nghèo,
giữa giai cấp thống trị và bị trị là mâu thuẩn chủ yếu
của xã hội cổ đại, là cái đặc trưng cơ bản nhất của nhà
nước chiếm hữu nô lệ Hy Lạp. Nó là nhân tố chủ yếu thúc đẩy
các quốc gia-thành thị Hy Lạp bước nhanh trên con đường suy
vong.
5.
Sự suy tàn của các thành ban Hy Lạp và sự thống trị của nước
Macédoine.
Ðồng
minh Pélonnés do Xpac cầm đầu và đồng minh Ðê-lôt do A-ten cầm
đầu là hai phe đối địch với nhau. Xpac và A-ten tranh giành
quyền bá chủ ở bán đảo Hy Lạp, cuối cùng cuộc tranh chấp
về chính trị và kinh tế diển biến thành cuộc đấu tranh quyết
kiệt về quân sự. Hai thành bang hùng mạnh và thù địch này đánh
nhau ác liệt trong suốt 27 năm. Cuộc chính trị ấy trong lịch sử
gọi là chiến tranh Pélonnés (431-404 tr. C. n.,).
Chiến
tranh Pélonnés kéo dài đã làm cho Hy Lạp sức cùng, lực kiệt.
Trải qua một thời kỳ binh đao, khói lửa lâu dài, lực lượng
sản xuất trong xã hội Hy Lạp bị tàn phá khóc liệt ruộng đồng
hoang phế, công trường đình đốn, đâu đâu cũng thấy những
kẻ lưu vong thất sở.
Giữa
thế kỷ IV tr. C. n., các thành bang Hy Lạp đều bước dần đến
chổ tàn tạ. Những mâu thuẩn trong nội bộ xã hội chiếm hữu nô
lệ Hy Lạp đưa toàn bộ nước đó đến cuộc khủng hoảng trầm
trọng. Vừa lúc đó thì ở phương bắc, nước Macédoine mới hưng
thịnh lên, thừa cơ hội quật khởi, chinh phục toàn bộ bán đảo
Ban-kan, kết thúc thời kỳ độc lập của các thành bang Hy Lạp
6. Cuộc đông chinh củ
Alexandre nước Macédoine và thời kỳ Hy lạp hóa.
Khi
đã củng cố nền thống trị của Macédoine ở Hy Lạp rồi thì còn
của Philippe là Alexandre kế ngôi của Philippe, chuẩn bị đi đánh
đế quốc Ba Tư để xâm chiếm đất đai và cướp đoạt của
cải ở các nước phương Ðông.
Cuộc
diễn chinh của Alexandre mang tính chất xâm lược, cướp bóc cực kỳ dã
man. Y đã từng hạ lệnh thiêu hủy nhiều thành thị, đem haòng trăm,
hàng nghìn vạn người bán làm nô lệ và cướp sạch của cải
ở các miền bị chinh phục. Tuy vậy, về khách quan, cuộc diễn
chinh ấy đã có tác dụng xúc tiến sự giao lưu kinh tế và văn hóa
giữa Hy Lạp và các nước phương Ðông. Alexandre
tự cho mình là kẻ có công truyền bá nền văn minh Hy Lạp
đi khắp nơi.
Alexandre
lại còn có tham vọng chinh phục cả miền Tây Ðịa Trung
Hải. Nhưng năm 323 trước công nguyên, y chết vì bệnh tại thành
Ba-li-lon.
Ðế
quốc do Alexandre thành lập, phía tây bắt đầu từ Ma-xê-đô-ni và
bán đảo Hy Lạp, phía đông đến tận lưu vực sông Ấn, phía nam
đến Ai Cập, Li-Bi, phía bắc đến Cap-ca-dơ và miền Trung Á.
Nhưng
đế quốc Alexandre cũng chỉ là một đế quốc xây dựng trên sự
chinh phục bằng vũ lực, thiếu cơ sở để thực hiện sự thống
nhất về kinh tế và văn hóa.
Bởi
vậy, sau khi Alexandre chết, thì đế quốc rộng lớn của y bị
chia cắt thành nhiều nước.
Nhìn
chung, các quốc gia Hy lạp hóa trên đây hình thành trên sự đổ nát
của đế quốc Alexandre, một mặt có những đặc điểm của xã
hội cổ đại phương Ðông, mặt khác cũng có những đặc điểm
của nền văn minh cổ điển Hy Lạp. Lúc bấy giờ, các thành bang
trên đất nước Hy Lạp,... đã lùi xuống địa vị thứ yếu, còn
như các thành thị mới xây dựng thì đã trở nên những trung tâm
mới của nền văn minh Hy Lạp hóa.
Thời
kỳ Hy Lạp hóa bắt đầu từ khi Alexandre cất quân đông chinh (năm
334 trước công nguyên) đến khi quốc gia Hy Lạp hóa Ai Cập bị đế
quốc La Mã xâm chiếm và biến thành một "tỉnh" của nó
(năm 30 trước công nguyên).
Trong
thời kỳ Hy Lạp hóa, do hậu quả của chiến tranh, của cải cướp
bóc được và nô lệ chiến tù được mang về Hy Lạp rất
nhiều, làm cho chế độ chiếm hữu nô lệ ở đây vẫn tiếp
tục phát triển trong một
thời gian nữa. Mặt khác chế độ nô lệ cổ điển do người Hy
Lạp du nhập sang phương Ðông cũng được phổ biến rộng rãi ở
các quốc gia Hy Lạp hóa.
Thời
hy Lạp hóa cũng là thời kỳ xúc tiến mạnh mẽ nhất sự giao lưu
kinh tế và văn hóa giữa Ðông và Tây.
C.
LA MÃ |
I.
SỰ THÀNH LẬP NHÀ NƯỚC LA MÃ SỰ PHÁT SINH VÀ PHÁT TRIỂN
CỦA NỀN CỘNG HÒA CHIẾM HỮU NÔ LỆ LA MÃ (từ giữ
thế kỹ VIII đến
đầu thế kỷ III trước công nguyên) |
1. Sự thành lập La Mã và tổ chức chính trị buổi đầu
của nó (thế kỷ VIII-VI trước công nguyên).
La
Mãì là một đơn vị địa lý thuận lợi cho sự thống nhất về
lãnh thổ và về chính trị. Từ thời thượng cổ, trên bán đảo
Ý đã có người nguyên thủy sinh sống. Ðến đầu thiên niên kỷ
II trước công nguyên, có những cuộc thiên di lớn của các dân
tộc châu Âu xuống bán đảo Ý.
Vào
khỏang năm 753 trước công nguyên, ba bộ lạc La Tinh đã xây dựng
lên một thành thị trên bờ sông Tibre, lây tên một nhân vật
truyền thuyết là Romulus, được coi là người sáng lập ra thành
La Mã, để dặt tên cho thành là Roma tức là La Mã. Từ đó về
sau, người ta gọi người La Tinh sống ở thành ấy là nhân dân La
Mã. Sự xây dựng thành thị lần đầu tiên là các mốc đánh
dấu sự tan rã của chế độ thị tộc và sự xuất hiện của nhà
nước.
Về
mặt tổ chức chính trị, thì trong quá trình phát triển lịch, La
Mã trong buổi dầu cũng có "vua", có viện nguyên lão và đại
hội nhân dân.
Dựa
theo cuộc cải cách mà So-lon đã tiến hành ở A-ten, vào giữa
thế kỹ VI trước công nguyên vua (Servius Tullius), đã phá giới
hạn của tổ chức thị tộc, thực hành cải cách xã hội. Ông căn
cứ theo tài sản tư hữu nhiều, ít để chia toàn thể những người
trai tráng có nghĩa vụ đi lính, không phân biệt quí tộc Patrici
hay bình dân pơ-lep làm sáu đẳng cấp: đẳng cấp thứ nhất là
lớp quý tộc có nhiều của cải; càng xuống những đẳng cấp dưới
thì của cải tư hữu càng ít dần; đẳng cấp thứ sáu thì chỉ
gồm những người vô sản. Ðại hội mới, gồm toàn thể các
binh sĩ, gọi là đại hội Xanturia.
Nguyên
nhân căn bản của những biến động xã hội dẫn đến cải cách
của Tullius là cuộc đấu tranh ngày càng quyết liệt giữa một bên
là quần chúng bình dân pơ-lep, mà vai trò trong nền sản xuất xã
hội ngày càng trở nên quan trọng, và một bên la tầng lớp quý
tộc Patrici mà thế lực đã bị giảm sút. Kết qủa tất nhiên
của cuộc đấu tranh đó là sự giải thể càng nhanh chóng của xã
hội thị tộc La Mã, là sự thũ tiêu bước đầu tình trạng cách
biệt về ngồn gốc xã hội giữa po-lep và Patrici, là sự thực
hiện bước đầu quyền bình đẳng về nghĩa vụ quân sự giữa
hai giai cấp đó. Bởi vậy cải cách của Tullius tuy chưa hoàn toàn
xóa bỏ mọi sự cách biệt giữa quý tộc và bình dân, song vẫn
được người bình dân xem như là một trong những thắng lợi đầu
tiên của họ đối với giai cấp quý tộc thị tộc.
2.
Sự thiết lập chế độ cộng hòa La Mã. Cuộc đấu tranh của người
pơ-lep (Thế kỷ V-III tr.c.n.).
Vào
khoảng năm 510 tr.c.n., chấm dứt thời kỳ vương chính trong lịch
sử La Mã, thời kỳ tan rã toàn diện của chế độ xã hội thị
tộc. Cũng từ đó mở đầu một thời kỳ mới, thời kỳ cộng hòa
La Mã.
Lúc
bấy giờ, "vua" đã bị phế truất, nhà nước La Mã mới
ra đời. Ðại hội Xanturia, mà thực chất là đại hội của toàn
thể quân đội, họp để quyết định chung về mọi vấn
đề quân sự như tuyên chiến, đình chiến hoặc nghị hòa,
bầu cử tướng lĩnh hàng năm..., trở thành cơ quan quyền lực
tối cao của nhà nước La Mã. Ðại hội Xanturia họp là hình
thức phôi thai của nền dân chủ nô La Mã.
Cơ
quan quyền lực thứ hai của nhà nước cộng hòa La Mã được giao
cho hai quan chấp chính gọi là Consul, quyền hành ngang nhau, Thời
chiến thì giữ chức tư lệnh quân đội La Mã, thời bình thì
nắm giữ quyền lập pháp, quyền hành chính lẫn quyền tư pháp,
quyền hạn rất lớn.
Tóm
lại, nhà nước La Mã vừa ra đời, đã mang tính chất hai mặt.
Một mặt, nó tập hợp cả dân La Mã và Pơ-lep vào một nhà nước
thống nhất, tổ chức theo hình thức cộng hòa, trong đó quyền dân
chủ của nhân dân La Mã được đảm bảo một mức độ nhất định,
tạo điều kiện cho La Mã phát triển mạnh mẽ chế độ chiếm
hữu nô lệ; đó là mặt tích cực của nó. Nhưng mặt khác, nhà nước
đó thực chất là nhà nước cộng hòa quí tộc, trong đó quyền hành
tập trung vào tay giai cấp quí tộc La Mã; sự cách biệt giữa Pa-tơ-ri-xi
nà Pơ-lep vẫn còn.
Cải
cách của Tu-li-u-xơ căn bản chưa xóa bỏ được sự cách biệt
giữa Pơ-lep và Pa-tơ-ri-xi, vì thế cuộc đấu tranh còn tiếp tục
diễn ra trong suốt 200 năm sau.
Năm
287 tr.c.n., có thể coi là năm kết thúc quá trình đấu tranh bền
bỉ của người bình dân chống phân biệt đối xử công dân tự
do La Mã.
Tuy
nhiên, chế độ cộng hòa La Mã dù có được dân chủ hóa, nhưng
nhà nước đó căn bản vẫn đảm bảo quyền lợi của bộ phận
chủ nô giàu có trước hết, nên nó còn mang nhiều tính chất
hạn chế.
3.
La Mã chinh phục bán đảo Ý và thống nhất khu vực Ðịa trung
hải. Cuộc chiến tranh giữa
La Mã và Cac-ta-giơ (264-146 tr.c.n.).
La
Mã lúc mới thành lập, chỉ là một thành bang đất hẹp, người
thưa ợ trên bờ sông Tibre. Từ thế kỷ IV tr.c.n., trở đi, La Mã
bắt đầu bành trướng thế lực bằng những cuộc chiến tranh xâm
lược các bộ tộc láng giềng.
Ở
thời kỳ La Mã mới bắt đầu phát triển. Nguyên nhân là vì La Mã
đã có một cơ sở kinh tế nông nghiệp tương đối vững cho phép
đánh lâu dài, và một tổ chức quân sự tương đối mạnh gồm
phần lớn là lính mộ trong đám bình dân có tinh thần chiến đấu
và tinh thần kỷ luật tương đối cao, có vũ trang đầy đủ, có
kỷ thuật tác chiến tốt.
Nguyên
nhân cuộc chiến tranh La Mã Cac-ta-giơ là sự tranh giành đất đai,
nô lệ và bá quyền về thương nghiệp ở miền Tây Ðịa trung
hải, giữa bọn quí tộc chủ nô hai nước. Bàn về tính chất
của cuộc chiến tranh ấy, Lê-nin nói: "...Chến tranh đế
quốc chủ nghĩa cũng đã bùng nổ trong thời đại chế độ nô
lệ. Cuộc chiến tranh giữa La Mã và Cac-ta-giơ, xét về cả hai bên,
đều là một cuộc chiến tranh đế quốc chủ nghĩa".
Cuộc
chiến tranh Pu-nit keó dài 120 năm. Về thực chất, đó là một
cuộc chiến tranh giữa bọn quí tộc chủ nô La Mã và bọn quí
tộc chủ nô Cac-ta-giơ để tranh giành thuộc địa và bá quyền
về thương nghiệp ở Ðịa trung hải. Ðể phục vụ lợi ích
của bọn quí tộc chủ nô, hàng trăm vạn người đã bị hy sinh tính
mạng, vô số những thành thị nguy nga, tráng lệ đạ bị biến thành
những đóng gạch dụng hoang tàn.
Sau
cuộc chiến tranh Pu-nit, La Mã lại lần lượt chiếm thêm nhiều
miền đất đai rộng lớn ở Ðông bộ Ðịa trung hải, ở miền
tiểu Á và ở Bắc Phi.
Như
vậy là trải qua trên hai trăn năm bành trướng bằng vũ lực, La Mã
đại đế đã thống nhất toàn bộ khu vực Ðịa trung hải, thu
gồm bán đảo Ý, Tây ban nha,Ma-xê-đô-ni, Hy lạp, Tiểu Á, Xi-ri,
Ai cập và bờ biển Bắc Phi làm thành một đế quốc rộng lớn.
Lúc ấy, nền thống trị của La Mã đã được xây dựng trên cơ
sở chế độ nô lệ phát triển cao độ.
II.
SỰ PHÁT TRIỂN CỦA NỀN KINH TẾ ÐẠI ÐIỀN TRANG VÀ CUỘC
KHỦNG HOẢNG CỦA CHẾ ÐỘ CỘNG HÒA CHIẾM HỮU NÔ LỆ LA
MÃ |
1.
Sự xuết hiện và phát triển của nền kinh tế đại điền trang.
Những
cuộc chinh phục đất đai của La Mã trong những thế kỷ III-II
tr.c.n., đã gây nên những hậu quả lớn lao và sâu sắc trong các
ngành sản xuất kinh tế của đế quốc La Mã. Từ đây, nông
nghiệp, chăn nuôi, thủ công nghiệp và thjương nghiệp, sử dụng
lao động của những người dân tự do sản xuất nhỏ, đã bị
những cuộc chiến tranh liên miên đẩy lùi xuống địa vị thứ
yếu.
Bọn
quí tộc quan lại và bọn thương nhân La Mã (thường gọi là
"kỵ sĩ" vì đa số là bọn thương nhân này đều xuất thân
từ tầng lớp kỵ sĩ) nhờ chiến tranh xâm lược mà phát tài to.
Ngoài số vốn chúng đầu tư trong kinh doanh công thương nghiệp, chúng
còn đem tiền của thừa thãi tậu những điền trang lớn, dùng nhân
công nô lệ cày cấy.
2.
Ðời sống của nông dân và nô lệ ở thời kỳ cộng hòa La Mã.
Ruộng
đất càng tập trung trong tay bọn địa chủ chủ nô, điền trang càng
mở rộng thì tình cảnh nông dân La Mã và nông dân Ý càng điêu
đứng.
Quá
trình bần cùng hóa nông dân tự do ở La Mã và ở Ý đi đôi với
quá trình tâp trung ruộng đất vào tay bọn chủ nô chúa đất, đã
vẫn đến tình trạng mâu thuẫn giai
cấp gay gắt và đấu tranh giai cấp quyết liệt trong xã hội La Mã.
Ðó là một trong những nguyên nhân khiến cho chế độ cộng hòa
La Mã dần dần lâm vào một cuộc khủng khoảng vô cùng trầm
trọng.
Trong
xã hội La Mã cổ đại, không có một ngành sản xuất kinh tế nào
mà không sử dụng một cách rộng rãi lao động của nô lệ.
Gần
hai thế kỷ bành trướng bằng vũ lực, giai cấp thống trị La Mã
đã bắt hàng chục vạn nhân dân những miền bị chinh phục, bắt
hàng chục vạn tù binh đem bán nô lệ. Theo sau quận đội La Mã,
thường có những bọn con buôn, những kẻ đấu thầu, chuyên
nhận mua chiến tù hay thường dân bị bắt đem bán ra thị trường
nô lệ.
Số
nô lệ trong xã hội La Mã ước lượng là bao nhiêu, hiện không có
tài liệu thống kê chính xác của thời cổ để lại. người ta
chỉ có thể ước đoán rằng đến thế kỷ II tr.c.n., nô lệ đã
chiếm một tỷ lệ dân số cao hơn nhiều so với dân tự do. Nói
chung đời sống của nô lệ trong xã hội La Mã cổ đại hết
sức khổ nhục.
Ngoài
ra nô lệ bị đưa vào những doanh trại tập trung số nô lệ đó,
cho họ ăn uống và luyện tập võ nghệ để đến dịp ngày lễ,
ngày hội lớn ở La Mã là đưa họ ra trường đấu để đấu
nhau với thú dữ (hổ, báo, voi, sư tử) hoặc giao đấu với nhau,
chém giết lẫn nhau hết sức rùng rợn. Trận đấu bao giờ cũng
kết thúc bằng một cuộc đổ máu vô cùng thê thảm của những
người nô lệ đấu sĩ ï.
3.
Những mâu thuẫn giai cấp trong xã hội La Mã cuối thời đại
cộng hòa.
a.
Những cuộc khởi nghĩa đầu tiên của nô lệ và dân nghèo ở
Xi-xin và ở Tiểu Á (nửa sau thế kỷ II tr.c.n.).
Trong
xã hội La Mã có quí tộc, bình dân và nô lệ. Quí tộc và bình dân
là thuộc tầng lớp dân tự do. Nô lệ là những người lao động
không có quyền lợi chính trị và không có quyền tự do về thân
thể. Giữa quí tộc và bình dân vẫn còn có mâu thuẫn không thể
điều hòa được. Ngay trong nội bộ giai cấp quí tộc, giữa bọn
quí tộc địa chủ cũ và bọn quí tộc công thương mới, cũng có
cuộc đấu tranh giành giật chính quyền. Nhưng lúc bấy giờ, mâu
thuẫn chủ yếu trong xã hội là mâu thuẫn giữa quí tộc chủ nô
và nô lệ. Mâu thuẫn đó đã được thể hiện qua những phong trào
khởi nghĩa đầu tiên của nô lệ và dân nghèo ở Xi-xin và ờ
Tiểu Á hồi nữa sau thế kỷ II tr.c.n.
b.
Cuộc vận động cải cách ruộng đất của anh em Gracchus và phong
trào chống La Mã của các nước đồng minh ở Ý.
Tình
trạng tập trung ruộng đất như vậy không những đã làm mất
nguồn sinh sống của đông đảo quần chúng dân tự do, mà lại còn
làm cho thế nước ở La Mã suy yếu dần. Chế độ nô lệ ngày càng
phát triển, thì số người vô sản lưu vong ngày càng đông. Quân
đội La Mã xây dựng trên cơ sở mộ binh trong tầng lớp nông dân
tự do, đến bây giờ bị giảm sút trầm trọng vì thiếu người
nhập ngũ.
Nguy
cơ ấy khiến cho nhiều nhà qúy tộc chủ nô lấy làm lo lắng. Do
đó mà có việc hai anh em Gracchus đề xướng cuộc vận động
hạn điền. Hai nhà cải cách xã hội này xuất thân từ gia đình
quý tộc có quyền thế. Năm 133 trước công nguyên, người anh là
Tiberius Gracchus được cử làm quan bảo dân.
Tiberius
Gracchus đã thảo ra một đạo luật hạn định ruộng đất công,
mỗi gia đình quý tộc được chiếm làm của riêng không được
quá 1000 mẫu; phàm ruộng đất chiếm quá mức ấy thì tịch thu đem
phân phối cho những người bình dân không có ruộng đất. Giai
cấp quý tộc địa chủ phản đối kịch liệt đã giết chết
Tiberius Gracchus cùng 300 đồng đảng. Như thế là cuộc vận động
hạn điền biến thành một cuộc đấu tranh đổ máu. Mười năm
sau em là Caius Gracchus được bầu làm quan bảo dân, lại đề ra
một lần nữa luật hạn điền. Cuối cùng Caius Gracchus cùng với
trên 3000 đồng đảng đều bị giết chết.
Cuộc
vận động hạn điền của hai anh em Gracchus đề xướng, cuối cùng
đã thất bại. Luật hạn điền bị huỷ bỏ. Ruộng đất đã
bị tịch thu và phân phối cho bình dân, nay bị thu hồi để hoàn
lại cho chủ cũ. Tình trạng kiêm tính đất đai lại càng trần
trọng hơn trước. Mâu thuẫn giai cấp trong nội bộ xã hội La Mã
càng thêm sâu sắc.
c.
Mâu thuẫn trong nội bộ giai cấp quí tộc chủ nô.
Trong
lúc cuộc đấu tranh giữa nô lệ và chủ nô, giữa bình dân và quý
tộc, giữa La Mã và các nước "đồng minh" ở Ý đang làm
lung lay cơ sở của nền cộng hòa La Mã, thi trong nội bộ giai
cấp thống trị chủ nô, giữa bọn quý tộc địa chủ và bọn quý
tộc thương nhân, cũng nổ ra những cuộc xung đột rất tàn khốc
để tranh cướp chình quyền ở La
Mã.
Trong
thời kỳ trấn áp các cuộc khởi nghĩa của nô lệ và của các
bộ tộc " đồng minh" ở Ý, La Mã chủ yếu dựa vào hai tướng:
một là Marius, là quý tộc thương nhân, hai là Sylla, thuộc phái quý
tộc bảo thủ. Cuộc đấu tranh trong nội bộ bọn thống trị La Mã
lúc này diễn biến thành một cuộc xung đột giữa hai viên tướng
đó.
Chế
độ cộng hoà ở La Mã đã không có đủ sức để bảo vệ
quyển lợi của bọn đại quý tộc chủ nô nữa. Bọn chúng lúc
ấy yêu cầu thiết lập nền độc tài quân sự của Sylla chỉ
tồn tại được ba năm. Sau khi Sylla chết, bọn đại quí tộc
chủ nô lại tìm đến hia viên tướng khác là Pompeius và Crassus. Dù
sao, với sự xuất hiện nền độc tài Sylla, những truyền thống
của chế độ cộng hòa bị xúc phạm: nền cộng hòa La mã đã
bắt đầu trải qua thời kỳ khủng hoảng trầm trọng
4. Cuộc khởi nghĩa nô lệ do Spartacus lãnh đạo (73-71 trưóc
công nguyên)
Ðời sống của người nô lệ rất bi thảm, cho nên tinh
thần đấu tranh của nô lệ rất kiên quyết. Do đó, họ quyết tâm
đứng dậy chống lại bọn quý tộc chủ nô độc ác. Từ giữa
thế kỷ II trước công nguyên, những cuộc khởi nghĩa bl liên
tiếp bùng nổ ở trên đất Ý, trong đó cược khởi nghĩa to lớn
nhất, ảnh hưởng sâu rộng nhất là cuộc khởi nghĩa của nô
lệ và dân nghèo năm 73 trước công nguyên do Spartacus lãnh đạo. Năm
71 trước công nguyên, quân khởi nghĩa bị các đạo quân củ hai tướng
La Mã Crassus và Pompéc đánh bại.
5. Nền độc tài quân sự của Cesar. Bước quá độ từ chế độ
cộng hòa quý tộc sang đế
chế.
Sau
khi đã đàn áp xong cuộc khởi nghĩa của Spartacus, bọn quý tộc
chủ nô La Mã phải dùng đến
chính sách độc tài quân sự để củng cố nền thống trị của chúng.
César,
Pompéc và Crassus cùng chung nắm giữ mọi quyền binh trong tay. Trong
lịch sử, chính quyền đó gọi là chế độ chuyên chính tay ba hay
là chế độ tạm hùng lần thứ nhất. Cuối cùng César nắm quyền độc tài.
Năm
44 trước công nguyên, trong lúc César
đang chủ tọa một cuộc họp của Viện Nguyên Lão, phe đối
lập đã bày mưu sắp kế sẵn, cố ý gây tình thế hỗn độn,
thừa cơ xông vào đâm chết César tại
chỗ.
César
chết rồi thì tình hình chính trị ở La Mã trong một thời
kỳ trở nên hỗn loạn. Thanh kiếm của phái quý tộc cộng hòa
chỉ giết được cá nhân César , nhưng không thể ngăn cản nổi xu hướng chính
trị mà Césrr là đại biểu. Bởi Vậy, sau đó thì cuộc nội
chiến lại bùng nổ một lần nữa ờ La Mã .
Năm
43 trước công nguyên, Octavius và Antonius cùng với Lépidus, tổ
chức thành chế độ tạm hùng lần thứ hai, cùng chung nắm giữ
chính quyền ở La Mã .
Chế
độ tạm hùng lần thứ hai đã thanh trừ được phái quý tộc
cộng hòa trong nội bộ giai cấp thống trị La Mã
rồi thì, Octavius, Antonius, Lépidus liền chia nhau đất đại
để cai trị: , Octavius , thì được chia đất Ý và xứ
Gô-lơ, Antonius thì được
các miền đất đai rộng lớn ở Ðông bộ Ðịa Trung Hải, Lépidus
thi được chia các tỉnh ở Bắc Phí. Ba tên quân phiệt này điều
thấy chúng không thể chung sống với nhau lâu ở La Mã
đươc.
Sự
xung đột giữa , Octavius và
Antonius cuối cùng dẫn
đến chiến tranh. Năm 31 trước công nguyên, hải, lục quân của ,
Octavius cùng hạm đội liên
minh của Antonius và Cơ-lê-ô-pat
gặp nhau ở Ac-ti-um ngoài bờ biển phía tây bàn đảo Hy Lạp. ,
Octavius thắng to, liền đem quân
đổ bộ sang Ai Cập. Antonius
và Cơ-lê-ô-pat bị bao vây, tuyệt vọng, lần lượt tự sát.
, Octavius thôn tính hết đất
đai của Antonius. vương triều Pơ-tô-lê-mê thống trị Ai Cập
trong ba trăm năm bị diệt vong. Từ đấy, Ai- Cập biến thành một
tỉnh của đế quốc La Mã .
Trận
Ac-ti-um năm 31 trước công nguyên đã quyết định sự thống nhất
lại của đế quốc La Mã .
III.
THỜI KỲ CỰC THỊNH CỦA ÐẾ QUỐC CHIẾM
HỮU NÔ LỆ LA MÃ |
1. đế chế la mã thời sơ kỳ: thời đại ô-gu-xtu-xơ.
Sau khi đánh bại Antonius, Octavius trở về La mã với những
chiến công hiển hách. Octavius xây dựng nền độc tài chuyên
chế.
Octavius
vẫn khoát bên ngoài chiếc áo cộng hòa, nhưng thực ra y đã thực
hành một nền độc tài chuyên chế thật sự. Y đã trở thành người
cầm quyền duy nhất của đế quốc La mã. Chính quyền của
Octavius là một hình thức đặc biệt của chế độ qân chủ chuyên
chế. Y nắm mọi quyền bính trong tay: quyền tổng chỉ huy quân đội,
quyền quan chấp chính, quyền quan bảo dân và cả quyền đại giáo
chủ nữa. Nhưng quyền hành đó về sau được trao cho Octavius
suốt đời. Ngoài ra, Octavius còn được viện nguyên lão suy tôn làm
quốc phụ và được tặng danh hiệu là Ô-gu-xtu-xơ có nghĩa là đấng
cao cả mà mọi người phải tôn kính và sùng bái như một vị
thần sống.
Khác
với César, Octavius không dám coi thường truyền thống cộng hòa
ở La mã, nên y không tự xưng là hoàng đế mà chỉ tự xưng là
người công dân số một. Chế độ chính trị đó, trong lịch
sử, gọi là chế độ nguyên thủ.
Dưới
thời đại Ô-gu-xtu-xơ (từ năm 17 trước công nguyên đến năm 14
công nguyên), trên cơ sở chế độ nô lệ phát triển, đế quốc
La mã đã trãi qua một thời kỳ phồn thịnh chưa từng có. Sự
thống nhất về chính trị và lãnh thổ đã thúc đẩy mạnh mẽ
sự phát triển của nền kinh tế đế quốc La mã, đặc biệt là
của ngành ngoại thương. Kinh đô ở trên bờ sông Ti-bơ-rơ, lúc
ấy đã trở nên một thành thị nguy nga đồ sộ. Từ thời đại
Octaviustrở đi, hoàng đế La mã lấy kinh đô làm trung tâm, đắp
đường sá đi thông suốt đến các tỉnh, nhờ đó mà cũng cố thêm
sự thống nhất về chính trị của đế quốc La mã. Những đường
sá đều có lát đá, rộng rãi mà lại chắc chắn, chạyđi khắp
nơi trong toàn quốc, chằn chịch như những mạch máu trong cơ
thể. Hết thảy mọi con đường đều dẫn đến La mã.
IV.
THỜI KỲ KHỦNG HOẢNG SUY VONG CỦA ÐẾ QUỐC CHIẾM HỮU NÔ
LỆ LA MÃ. KHỞI NGHĨA
NÔ LỆ VÀ SỰ XÂM NHẬP CỦA MAN TỘC (Thế
kỷ III-V) |
1.
Sự suy sụp của nền kinh tế chiếm hữu nô lệ của Ðế quốc
La mã. Sự xuất hiện chế độ lệ nông.
Trong hai thế kỷ I -II, Ðế quốc La mã tuy bề ngoài vẫn
giữ đựợc bộ mặt thái bình và thịnh vượng của nó, nhưng mâu
thuẫn giai cấp sâu sắcbên trong và những cuộc thất trận liên
tiếp bên ngoài đãdần dần làm cho nền kinh tế trong cả nước lâm
vào tình trạng bế tắc, mầm mống của sự suy vi đã bắt đầu.
Do sự bóc lột tàn khốc của giai cấp chủ nô đối với nô
lệ, do năng suất thấp kém của lao động nô lệ, do nguồn cung
cấp nô lệ chiến tù ngày càng khô cạn mà dần dần phát sinh
những biến đổi lớn trong nền kinh tế của Ðế quốc La mã.
Chế độ lệ nông bắt đầu xuất hiện. Lệ nông so với nô lệ
được chút ít tự do và có tinh thần tự nguyện sản xuất hơn.
Tuy nhiên, lệ nông vẫn bị buộc chặt vào mãnh ruộng đất ấy;
trên luật pháp, họ vẫn là nô lệ, mặc dầu lối làm ăn, canh tác
đã có phần đổi mới.
2.
Cuộc khủng hoảng chính trị của Ðế quốc La mã và sự thiết
lập chế độ vương chủ.
Trên đây đã nói, lệ nông lúc đầu có ít nhiều hứng thú
lao động, có thúc đẩy sản xuất tiến lên, có phục hồi lại
nền kinh tế nông nghệp của Ðế quốc ở những thế kỷ trước,
nhưng đến thời kỳ này, lệ nông cũng bị bóc lột tàn tệ, bị
đối xử không khác gì nô lệ cho nên nền kinh tế lệ nông cũng
không tránh khỏi tình trạng bế tắc.
Thời sơ kỳ Ðế chế, các hoàng đế tuy vẫn thực hành
chế độquân chủ chủ nô, song những tập quán và truyền thống
của chế độ cộng hòa La mã chưa mất hẳn, hình thức tổ chức
nhà nước cộng hòa vẫn được duy trì.
Sang
thời hậu kỳ Ðế chế, các hoàng đế đã vứt bỏ hoàn toàn cái
vỏ cộng hòa, ra sức tăng cường hơn nữa chế độ quân chủ
chuyên chế, tập trung cao độ quyền lực vào tay mình. Chế độ
chính trị đó được gọi là chế độ vương chủ.
Từ
cuối thế kỷ III, giữa các miền Ðông và Tây của Ðế quốc đã
bộc lộ rõsự khác nhau trong xu hướng phát triển.
Ở
miền Tây, tại những nơi mà chế độ nô lệ đã phát triển cao
như Ý, Tây ban nha, đông nam xứ Gô-lơ, Bắc Phi, thì chế độ nô
lệ đang bước vào thời kỳ khủng hoảng trầm trọng.
Ở
miền Ðông, như ở Tiểu Á, Xi-ri và Ai cập, nền kinh tế vẫn
giữa được vẽ phồn thịnh của nó.
Năm
395, hoàng đế Théodosius đem chia Ðế quốxc La mã cho hai người
con trai của y: người con cả được Ðông bộ, thủ đô là Côn-xtan-ti-nô-pô-lit,
người con thứ được Tây bộ, thủ đô là La mã. Từ đó trở đi,
Ðế quốc La mã chia thành Ðông bộ (về sau gọi là Ðế quốc
By-dăn-ti-um) và Tây bộ; mỗi bộ đều phát triển theo một con
đường lịch sử riêng.
3.
Cao trào cách mạng của nô lệ. Cuộc xâm lăng củangười Giecman và
sự diệt vong của Ðế quốc la mã.
Sau
những cuộc xâm nhập ồ ạt của các bộ Giec-man, Tây bộ Ðếquốc
La mã đã bị họ chinh phục hoàn toàn, người Tây Gốt thống
trị Tây ban nha; người Van-đan thống trị miền Bắc Phi, đảo
Xac-đen và đảo Cooc-xơ; người Fơ-răng và người Buôc-gông
thống trị xứ Gô-lơ; người Ăng-gơ-lơ và người Xăc-xơn thống
trị đảo Anh; người Ðông-giốt thống trị đất Ý. Mỗi bộ
tộc Giec-man đều thành lập chính quyền riêng của mìnhtrên một
phần đất đai cũ của Tây bộ Ðế qốc La mã. Hoàng đế La mã
ở Tây bộ Ðế quốc đã không còn chút quyền hành gì nữa, mà
hoàn toàn trở thành bù nhìn.
Tây
bộ Ðế quốc La mã cuối cùng đã bị chìm đắm trong cao trào cách
mạng của nô lệ và trong các cuộc xâm lăng của người man tộc.
Năm 476, lãnh tụ quân sự của người Giec-man là Odoacer đã phế
truất vị hoàng đế cuối cùng của Ðế quốc La mã Romulus, rồi
tự xưng làm vua. Sự kiện này. Hồi đó, tuy chỉ là một chính
biến nhỏ, nhưng nó đã đánh dấu sự diệt vong của Ðế quốc
La mã (Tây bộ) trong lịch sử.
Sau
khi Tây bộ Ðế quốc La mã bị diệt vong, Ðông bộ Ðế quốc La
mã vẫn tiếp tục tồn tại tới ngót một nghìn năm nữa. Trong
lịch sử Trung đại, Ðông bộ Ðế quốc La mã được gọi là Ðế
quốc Bi-dăn-ti-um. Nó bắt đầu bước vào quá trình phong kiến hóa
và không còn là một đế quốc rộng lớn xây dựng trên cơ sở
chế độ nô lệ như xưa kia nữa.
Xã
hội nô lệ cổ đại đã tan rã. Trong cuộc binh
đao khói lửa ở thời kỳ hậu Ðế chế La mã, nhân loại
đã kết thúc một giai đoạn lịch sử quan trọng, đồng thời
mở đầu một trang sử mới: thời đại chế độ phong kiến ở
Châu Âu.