CHƯƠNG
II
: LỊCH SỬ CHIẾM HỮU NÔ LỆ PHƯƠNG ÐÔNG CỔ ÐẠI
A.
KHÁI QUÁT VỀ CÁC QUỐC GIA CỔ ÐẠI PHƯƠNG ÐÔNG |
Châu
Á và Ðông - bắc bộ Châu Phi là những nơi phát nguyên của
những nền văn minh cổ kính nhất của loài người. Ở đây đã
từng phát sinh và phát triển những quốc gia chiếm hữu nô lệ
tối cổ, xây dựng trên sự tan rã của chế độ cộng sản nguyên
thủy và sự phân cghia xã hội thành giai cấp. Những nền văn minh
cổ kính đó trước sau đã lần lượt xuất hiện trên lưu vực
những con sông lớn: đó là lưu vực sông Nin ở Ai - cập, lưu
vực Lỡng-Hà tạo nên bởi hai con sông Ti-gơ-rơ và Ơ-phơ-rát
chảy ra vịnh Ba Tư, lưu vực hai con sông Ấn và sông Hằng bồi đắp
nên đồng bằng Bắc Ấn-độ, và lưu vực hai con sông Hoàng-hà và
Trường-giang tạo nên vùng đồng bằng Hoa-bắc rộng lớn và phì
nhiêu.
Các
quốc gia cổ đại phương Ðông đều có những đặc trưng chung
của một xã hội chiếm hữu nô lệ, ví như việc phân chia xã
hội thành hai giai cấp đối kháng: giai cấp quý tộc chủ nô
thống trị và giai cấp nô lệ bị áp bức, bóc lột một cách tàn
nhẫn và thô bạo nhất.Nhưng các quốc gia đó cũng có nhiều đặc
điểm riêng làm cho người ta có thể phân biệt chúng với các
quốc gia chiếm hữu nô lệ phương Tây, tức Hy-lạp và La-mã cổ
đại, mà những đặc điểm riêng biệt đó chủ yếu là như sau:
Các
quốc gia cổ đại phương Ðông ra đời ở thời kỳ mà sức sản
xuất xã hội đang còn ở trình độ thấp kém. Trình độ sản
xuất thời ấy không cho phép các quốc gia đó phát triển chế độ
chiếm hữu nô lệ một cách thành thụ và điển hình.
Sự
tồn tại dai dẳng của những tổ chức công xã nông thôn, tàn tích
của chế độ xã hội thị tộc thời nguyên thủy, và sự phát
hội cổ đại phương Ðông.
Sự
bảo tồn lâu dài của chế độ nô lệ gia trưởng, việc sử
dụng lao động của nô lệ chưa được phổ cập trong các ngành
sản xuất xã hội và vai trò của nô lệ trong sản xuất kinh tế
chưa chiếm địa vị chủ đạo.
Sự
xuất hiện và phát triển của một hình thức tổ chức nhà nước
đặc biệt, nhà nước quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền
mạnh mẽ, gọi là chủ nghĩa chuyên chế phương Ðông mà đặc trưng
chủ yếu là quyền lực vô hạn của các đế vương, nằm quyền
sở hữu tối cao về ruộng đất và về thần dân trong cả nước.
B.
AI CẬP |
I. ÐIỀU KIỆN THIÊN NHIÊN VÀ SỰ HÌNH THÀNH NHÀ NƯỚC AI - CẬP CỔ ÐẠI |
1. Ðiều kiện thiên nhiên:
Ai-cập
là quê hương của một trong những nền văn minh xuất hiện sớm
nhất trong lịch sử xã hội loài người. Ai-cập ở Ðông bắc
bộ châu phi, là một vùng thung lũng hẹp và dài nằm dọc theo hạ
lưu sông Nin; Ai-cập phía đông giáp Hồng-hải và sa mạc A-cập,
phía nam giáp miền rừng núi Nu-bi thuộc Trung bộ châu Phi, phía tây
giáp sa mạc Li-bi, phiá bắc giáp Ðịa- trung- hải, bốn mặt đều
có biên giới thiên nhiên cách trở, khiến cho Ai-cập thời cổ
hầu như cô lập đối với thế giới bên ngoài.
Ngay
từ thời đồ đá mới tại lưu vực sông Nin đã xuất hiện nhà
nước CHNL.
2. Sự hình thành quốc gia thống nhất cổ Ai-cập.
Công
xã nông thôn là tổ chức kinh tế cơ sở của Cổ Ai-cập. Nhiều
công xã nông thôn hợp lại thành một liên minh công xã rộng lớn
hơn, gọi lànôm.
Do
yêu cầu thống nhất quản lý công tác thủy lợi. Giữa thiên niên
kỷ IV trước công nguyên, các châu miền Bắc Ai-cập thống nhất
thánh vương quốc Hạ Ai-cập; các châu miền Nam Nam thống nhất thành
vương quốc Thượng Ai-cập. Mỗi vương quốc có tới chừng 20 châu.
Cuối
thiên niên kỷ IV trước công nguyên, trải qua một cuộc đấu
tranh lâu dài tàn khốc, Thượng và Hạ Ai-cập đã hợp nhất lại
thành một quốc gia thống nhất.
Người
có công thống nhất đất nước Ai-cập là (Ménès) (khoảng năm
3200 trước công nguyên).
Sau
khi thống nhất Ai-cập vua Ménès chọn Memphis làm thủ đô.
II.
AI-CẬP THỜI KỲ CỔ VƯƠNG QUỐC ( 3000-2400 tr.c.n.) |
Thời
kỳ Cổ vương là thời kỳ thống trị của các vua thuộc bốn vương
triều, từ vương triều thứ III đến vương triều thứ VI, tức vào
khoảng từ năm 3000đến năm 2400 trước công nguyên. Ðó là thời
kỳ hình thành quốc gia chiếm hữu nô lệ trung ương tập quyền
lần thứ nhất ở Ai-cập. Thời kỳ phát triển khá mạnh về
mặt thế lực chính trị và quân sự của nhà nước Ai-cập, cũng
như về mặt văn hoá nữa. Thời kỳ cổ vương quốc còn gọi là
thời kỳ kim tự tháp.
Những
công trình xây dựng kim-tự-tháp.
Với
ước vọng lưu lại đời đời tiếng tăm lừng lẫy và quyền uy
bất diệt của mình, các pha-ra-ôn thuộc các vương triều
Mem-phit-gọi như vậy vì các vương triểu thời Cổ vương quốc đóng
đô ở Mem-phit-ngay từ khi còn sống, đã lo xây dựng cho mình
những lăng mộ cực kỳ kiên cốvà đồ sộ.Ðó là những
kim-tự-tháp hùng vĩ làm kinh ngạc thế giới cổ kim.
Những
công trình xây dựng lăng mộ, đền đài dưới thời haì vương
triều III và IV đã làm cho nhân lực trong nước bị khánh kiệt;
thuế má và sưu dịch ngày càng đè nặng lên đầu nhân dân, làm
cho nhân dân vô cùng cơ cực và oán thán. Nhiều cuộc bạo động
và khởi nghĩa của quần chúng đã nổ ra.
Ðến
năm 24000 trước công nguyên, nước Ai cập thống nhất đã bị
chia cắt thành nhiều châu độc lập.
III.
AI CẬP THỜI KỲ TRUNG VƯƠNG QUỐC (2150-1710 tr. c. n) |
1. Sự thống nhất lại của Ai Cập.
Sau
khi cổ vương quốc tan rã, thì Ai cập bước vào thời kỳ phân
liệt và loạn lạc kéo dài non 300 năm. Trong thời kỳ này, Ai cập
đã thay đổi đến bốn vương triều (từ vương triều VII đến vương
triều X).
Trung
tâm thống nhất ở miền Bắc là đô thành Hê-ra-cơ-lê-ô-pô-lít,
ở miền Nam là đô thành Te-bơ. Lãnh tụ của thành Te-bơ là
Mentouhotep trở thành pha-ra-ôn của Ai cập, người sáng lập ra vương
triều XI, đóng đô ở Te-bơ. Từ đó bắt đầu thời kỳ Trung vương
quốc trong lịch sử Cổ Ai cập.
2.
Ðặc điểm kinh tế và xã hội của Ai cập thời Trung vương
quốc.
Ai
cập dưới thời kỳ thống trị của vương triều XII đã trở thành
một nhà nước trung ương tập quyền lớn mạnh. Một trong những
biện pháp quan trọng nhất mà nhà nước Ai cập thống nhất đã
thực hiện là khôi phục và mở rộng các công trình thủy lợi thành
một hệ thống tưới nước hết sức rộng lớn đối với thời
kỳ bấy giờ. Công trình sửa chữa hồ Moeris thành một bể chứa
nước nhân tạo là công trình có quy mô to lớn nhất.
Ði đôi với sự phát triển của sản xuất nông nghiệp,
sản xuất thủ công nghiệp thời Trung vương quốc cũng có nhiều
tiến bộ. Lúc này Ai cập hoàn toàn bước vào thời đại đồ đồng
thau. Ðồng thau đã cải tiến công cụ sản xuất trong nông
nghiệp cũng như trong các ngành thủ công. Sản xuất thủ công
nghiệp phát triển lại đẩy mạnh hoạt động của thương
nghiệp và mậu dịch đối ngoại.
Thời Trung vương quốc, xã hội Ai cập càng phân hóa mạnh,
mâu thuẫn giai cấp càng thêm sâu sắc. Nô lệ ngày càng đông thêm;
chế độ nô lệ ngày càng phát triển.
3.
Phong trào khởi nghiã của nô lệ và dân nghèo. Sự xâm nhập của
người
Hyksos.
Cuối
thời trung vương quốc, chính sách mậu dịch và chính sách vũ
trang xâm lược ngày càng mở rộng thì quý tộc và thương nhân càng
vơ vét thêm nhiều của cải và nô lệ. Mọi của cải đều tập
trung trong tay bọn chúng; quảng đại quần chúng nô lệ và dân nghèo,
ngay cả một bộ phận lớn trong tầng lớp trung gian, đều nhất
luật bị bốc lột tàn khốc. Mâu thuẫn không thể điều hòa
giữa chủ nô và nô lệ, giữa người giàu và kẻ nghèo đã làm
nổ ra nhiều cuộc bạo động và khởi nghĩa to lớn của quần chúng.
Phong
trào khởi nghĩa của dân nghèo và nô lệ cuối cùng bị thất
bại, song ý nghĩa của nó đối với lịch sử xã hội Ai-cập về
sau này rất lớn vì lần khởi nghĩa này đã làm lay chuyển cơ
cấu nhà nước chiếm hữu nô lệ Ai-cập.
Ðó
chính là cơ hội rất tốt cho người Hyksôs, thuộc các bộ lạc
du mục sống ở vùng Xi-ri và Pa-le-xtin, lợi dụng để xâm lược
Ai-cập. Cuối thời Trung vương quốc, khoảng năm 1710 trước công
nguyên, nhân tình hình lọan lạc ở Ai-cập, người Hich-xôt đã tràn
vào, dần dần chinh phục đại bộ phận đất đai của Ai-cập và
cuối cùng đặt nền thống trị của họ ở đây ngót một trăm rưỡi
năm (1710-1560 trước công nguyên), ở giữa hai thời kỳ Trung vương
quốc và Tân vương quốc.
IV.
AI CẬP THỜI KỲ TÂN VƯƠNG QUỐC. (1560-941 Trước công
nguyên) |
Ai
cập dưới chính quyền của vương triều Te-bơ và sự khôi phục
lại bộ máy nhà nước trung ương tập quyền, độc lập và tự
chủ, đã tạo điều kiện cho các pha-ra-ôn thuộc vương triều
XVIII không những có thể tiếp tục theo đuổi chính sách xâm lược
của các pha-ra-ôn thời Trung vương quốc, mà còn có thể mở
rộng chiến tranh xâm lược trên quy mô to lớn hơn.
1.Sự phát triển của sức sản xuất thời Tân vương quốc
Sự
thống nhất Ai cập đã thúc đẩy sức sản xuất phát triển lên
một bước. Những bức họa và điêu khắc còn giữ lại trong các
lăng tẩm và đền đài thời Tân vương quốc đều có mô tả
những cảnh hoạt động sản xuất của Ai cập thời ấy. Qua đó,
người ta thấy sự tiến bộ trong kỹ thuật canh tác nông nghiệp,
cũng như trong các nghành thủ công nghiệp, nơi mà sự sản xuất
đã bắt đầu chuyên môn hóa và được phân công tỉ mỉ. Thừa tướng
vi-di-a nắm quyền lãnh đạo mọi công tác sản xuất nông nghiệp
trong cả nước.
2.Chính
sách đối nội và đối ngoại của vương triều XVIII.
Thời
Tân vương quốc, mậu dịch đối ngoại của người Ai cập thường
tiến hành song song với những cuộc viễn chinh có tính chất cướp
bóc. Mục tiêu xâm lược chủ yếu của Ai cập vẫn là các miền
Xi-ri, Pa-le-xtin và Nu-bi, về sau mở rộng đến cả miền Tiểu Á và
lưu vực sông Ơ-phơ-rat. Người Ai cập ra sức cướp đoạt các vùng
có nhiều tài nguyên phong phú, kiểm soát các vị trí chiến lược
và các đường giao thông thủy bộ quan trọng.
Do
chính sách bành trướng bằng vũ lực của các pha-ra-ôn thuộc vương
triều XVIII mà Ai cập dần dần trở thành một đế quốc rộng
lớn, biên giới phía Bắc giáp vùng Tiểu Á, biên giới phía nam đến
tận xứ Nu-bi; khoảng cách giữa hai đường biên giới Nam Bắc có
tới 3.200 km. Lãnh thổ của đế quốc Ai cập rộng lớn đòi hỏi
phải cải tổ lại bộ máy quan liêu và cải tổ quân đội cho
hợp với yêu cầu của nền thống trị mới. Trước đây, các
pha-ra-ôn chỉ cần có một vi-di-a giúp việc, nay phải đặc hai
vi-di-a; một cai quản miền Bắc, một cai quản miền Nam. Nhiệm
vụ quan trọng nhất của vi-di-a vẫn là lãnh đạo mọi công trình
thủy lợi và công tác đồng án trong cả nước và xét xử các
vụ tranh chấp về ruộng đất. Tổ chức hành chính địa phương
cũng có thay đổi. Quyền lực của chúa châu bị hạn chế nhiều
vì phải chia sẽ bớt cho mấy quan chức khác trong châu do trung ương
bổ nhiệm. Do đó, bấy giờ quý tộc các châu không còn là một
mối đe dọa đối với chính quyền trung ương thống nhất nữa.
3.Cải
cách tôn giáo dưới đời Ich-na-tôn và nguy cơ tan rã của đế
quốc Ai cập.
Vì
muốn duy trì địa vị của mình, các pha-ra ôn thuộc vương triều
XVIII đã phải dựa vào thế lực của bọn tăng lữ cao cấp thờ
thần A-môn, và đem rất nhiều vàng bạc đất đai cúng cho các đền
đài, khiến cho tầng lớp tăng lữ trở nên rất giàu có. Dựa vào
thế lực kinh tế đó, tầng lớp tăn lữ ngày càng tăng cường
can thiệp vào công việc nội chính và dần dần thau túng chính
quyền trung ương họ thường cử người của họ ra giữ chức
vi-di-a và thường gây áp lực đối với các pha-ra-ôn. A-men-khô-tep
IV (1424-1388 trước công nguyên) quyền lực của tập đoàn tăng
lữ đã lấn át nhiều quyền lực của pha-ra-ôn. A-men-khô-tep IV
muốn thoát khỏi sự thống chế đó, liền thực hành một cuộc
cải cách tôn giáo lớn nhằm đánh đỗ thế lực của tập đoàn
tăng lữ thờ thần A-môn để chấn hưng vương quyền (1400 trước
công nguyên). Ông quyết định đề xướng một tôn giáo khác tôn
giáo thờ thần Mặt trời A-tôn.
Ông
ra lệnh xây dựng nhiều đền đài quy nga và kiến trúc đồ sộ
khác để thờ thần A-tôn ở khắp nơi và ngay cả ở Te-bơ, vùng
trung tâm của tôn giáo thờ thần A-môn. Tất nhiên là cải cách tôn
giáo đó đã gây nên sự căm phẫn và sự chống đối rất mãnh
liệt về phía bọn tăng lữ và quý tộc cũ ở địa phương.
A-men-khô-tep IV quyết định đánh mạnh hơn nữa vào bọn này để
đè bẹp một sự phản kháng. Ông hạ lệnh cắm chỉ mọi việc
thờ cúng, lễ bái các vị thần khác và chỉ cho phép nhân dân
trong nước được thờ một vị thần Mặt trời A-tôn. Các đền
đài cũ đều bắt buộc phải đóng cữa đa số tăng lữ đều
buộc phải trở về với cuộc sống trần tục. A-men-khô-tep IV còn
xóa bỏ cả tên hiệu của vua cha A-men-khô-tep III và thay đổi cả
tên hiệu cũ của mình để lấy tên hiệu mới Ich-na-tôn ( hay cũng
gọi là A-khe-ta-tôn có nghĩa la ìngười được thần A-tôn ưa
chuộng).
Cuộc
đấu tranh đang tiếp diễn Ich-na-tôn chết. Bọn tăng lữ cũ liền
xóa bỏ cải cách của Ich-na-tôn, khôi phục hoàn toàn tôn giáo
thờ thần A-môn. Ruộng đất của các đền đài bị tịch thu được
thu hồi lại. Ðô thành A-khe-ta-tôn bị bỏ phế. Thủ đô mới
dời về Te-bơ. Cải cách tôn giáo hoàn toàn thấp bại. Từ đó
chế độ trung ương tập quyền thời kỳ Tân vương quốc ngày càng
suy yếu. Thời đại Tân vương quốc chấm dứt từ đó.
C.
LƯỠNG HÀ VÀ KHU VỰC TRUNG CẬN ÐÔNG |
Các
quốc gia cổ đại ở khu vực Lưỡng Hà.
1.
Ðiều kiện thiên nhiên ở lưu vực Lưỡng Hà
Khu
vực do hạ lưu hai con sông Tigre và Euphrate tạo thành gọi là Lưỡng
Hà hay Mésopotamie có nghĩa làmiền đất đai ở giữa hai con sông
Giống như miền thung lũng sông Nin, lưu vực Lưỡng Hà cũng là
một khu vực phì nhiêu rất thích hợp cho nghề nông.
Lưu
vực Lưỡng Hà cũng như Ai cập là nơi phát tích của một nền văn
minh tối cổ của loài người. Chỗ khác nhau là: Ai cập thì bốn
bề đều có biên giới thiên nhiên cách trở, đất nước không
bị ngoại tộc đến xâm lược một cách thường xuyên. Còn lưu
vực Lưỡng Hà thì địa hình bằng phẳng, không có biên giới thiên
nhiên hiểm trở. Do đó, những bộ tộc du mục sống ở ven núi
hay trên các miền sa mạc ở chung quanh khu vực Lưỡng Hà đều dòm
ngó một cách thèm thuồng miếng đất phì nhiêu xanh tươi ấy.
Bởi vậy, lịch sử của Lưỡng Hà đầy dẫy những cuộc chiến
tranh giữa những bộ tộc định cư và những bộ tộc du mục
nhằm tranh giành quyền làm chủ khu vực này.
2.
Các quốc gia tối cổ ở Lưỡng Hà: Sumer và Akkcad.
Vào
khỏang nữa sau thiên niên kỷ IV trước công nguyên, cùng thời
kỳ mà người Ai-cập bắt đầu xây dựng nhà nước, cư dân ở lưu
vực Lưỡng-hà cũng đã sớm thoát ly khỏi chế độ công xã nguyên
thủy, bắt đầu xây dựng nhà nước của mình trên cơ sở chế
độ nô lệ.
Người
Sumer là kẻ đã đặt nền móng đầu tiên cho nền văn hóa cổ đại
ở lưu vực Lưỡng Hà.
Nhưng
người Sumer cũng không phải là người bản xứ đã sống từ trước
ở đấy. Vào khoảng đầu thiên niên kỷ IV trước công nguyên,
họ mới đến định cư ở Nam bộ Lưỡng Hà.
Sau
khi người sumer đã thiên di đến lưu vực Lưỡng Hà, ban đầu
họ còn sống tập trung với nhau để chăn nuôi và làm ruộng theo
chế độ công xã thị tộc. Họ đã phát minh ra đồ đồng rất
sớm, đã bước từ thời đại đồ đá sang thời đại đồ kim
loại. Họ đã có thể chế tạo được những đồ gốm tinh xảo,
dệt được các thứ vải. Họ đã xây đắp được nhiều công trình
thủy lợi khá hoàn bị và đã biết dùng trâu,bò để cày ruộng.
Người sumer còn biết dùng xe cộ và dùng bàn quay làm đồ gốm
sớm hơn cả người Ai cập.
Nô
lệ dĩ nhiên là phải làm việc nặng nhọc suốt năm, nô lệ đều
là những tù binh bị bắt trong chiến tranh hay mua ở nước ngoài
dem về. Phần lớn nô lệ là thuộc về nhà nước hay đền đài.
Một số gia đình quý tộc giàu có cũng có thể có nô lệ. Nô
lệ chủ yếu làm việc trong gia đình, xây đắp các công trình
thuỷ lợi, canh giữ đồng ruộng, chăn nuôi súc vật,v.v. Nô lệ
thường không được lao động cùng với dân tự do. Nông dân công
xã đảm nhiệm chủ yếu công việc sản xuất nông nghiệp và
thủ công nghiệp. Chế độ nô lệ ở các quốc gia cổ đại Lưỡng-hà
mang nặng tính chất gia trưởng. Nô lệ không được sử dụng
rộng rãi trong lao động sản xuất và họ có thể có gia đình riêng.
Khoảng
năm 3500 trước công nguyên, ước chừng đồng
thời với người cổ Ai cập, người Sumer Sumer cũng đã phát
minh ra chữ viết của mình. Vì thứ chữ đó hình giống như các góc
nhọn hay các đinh nhọn chắp nối lại với nhau, nên người ta
gọi là chữtiết hình hay chữ hình góc nhọn .
Lịch
pháp đã có người Sumer làm theo nguyên tắc âm lịch: 29 ngày
hoặc 30 ngày là một tháng, 12 tháng là một năm; đương nhiên
lịch pháp đó không thật khớp với thời gian quả đất vận
chuyển một vòng xung quang mặt trời, cho nên họ mới đặt ra tháng
nhuận. Âm lịch của người Sumer rất gần với nông lịch của
Trung Quốc; nó được các bộ tộc khác ở Tây Á sữ dụng một cách
rộng rãi. Ðến ngày nay, người Hồi giáo và người Do Thái ở Tây
Á vẫn sữ dụng lịch pháp ấy.
Về
toán học hệ đếm của người Sumer lấy 60 làm cơ số, nhưng cũng
bổ sung thêm bằng cơ số thập phân. Ngày nay người ta phân vòng
tròn làm 360 độ, phân một giờ làm 60 phút, một phút làm 60 giây,
d0ó là thừa hưởng phát minh của người Sumer để lại.
Khoảng
đầu thiên niên kỷ III trước công nguyên, người Sê-mit đã di cư
từ miền ngoại Cap-ca-dơ xuống phương Nam. Họ chia ra làm nhiều
bộ lạc, sống cuộc đời du mục ở suốt cả một dải đất
từ Xi-ri đến sa mạc Ai cập.
Trong
tất cả các giống người thuộc chủng tộc Sê-mit, thì người
Akkad là giống người bước vào thời kỳ lịch sử xã hội có
giai cấp sớm nhất. Vào khoảng năm 3500 trước công nguyên, họ đã
định cư ở vùng trung du Lưỡng Hà, tại miền Akkad. Lúc người
Sumer đang dựng lên một quốc gia- thành thị của họ ở miền Nam
lưu vực Lưỡng Hà, thì người Akkad
cũng đã dời bỏ đời đời sống du mục để làm nghề nông.
Trên
lưu vực Lưỡng-hà, người Sumer và người Akkad đã từng đánh
nhau suốt mấy trăm năm để tranh giành quyền bá chủ.
Cuối
thế kỷ XXIV trước công nguyên, lãnh tụ quân sự của người
Akkad là Sargon đánh thắng vương quốc của người Sumer, dùng vũ
lực thống nhất cả lưu vực Lưỡng Hà.
Sau khi đã chinh phục được người Sumer, người Akkad lại
tiếp thu hoàn toàn nền văn hóa tiên tiến của kẻ bị chinh
phục: về kỹ thuật canh tác nông nghiệp, về lịch pháp, sổ
học, kiến trúc, công nghệ cũng như về tín ngưỡng tôn giáo và
chữ viết. Về sau, lâu ngày người Akkad và người Sumer dần dần
đồng hóa với nhau.
Khoảng
năm 2228 trước công nguyên, bộ tộc Gu-ti sống tại miền rừng núi
Gu-ti-um ở phía đông sông Tigre, xâm nhập lưu Lưỡng Hà. Ðế
quốc do người Akkad dựng lên đã bị lật đổ trong cuộc xâm lăng
ấy. Người Gu-ti liền đặt nền thống trị của họ trên toàn
bộ lưu vực Lưỡng Hà, thay cho người Akkad.
Người
Gu-ti thống trị lưu vực Lưỡng-Hà ước trên bảy mươi năm.
Trong thời gian đó, người Sumer và người Akkad nhiều lần nổi
dậy đấu tranh chống lại sự áp bức của người Gu-ti. Ðến
khoảng năm 2150 trước công nguyên, người Sumer đánh đuổi được
người Gu-ti ra khỏi khu vực Lưỡng Hà, khôi phục lại nền độc
lập của người Sumer. Từ đó về sau, người Sumer lại khống
chế người Akkad, trở lại làm chủ ở lưu vực Lưỡng Hà.
Sau
khi đã đánh đổ ách thống trị của người ngoại tộc, người
Sumer đã tiến lên một trình độ cao hơn về sinh hoạt kinh tế và
văn hóa. Thành bang Ua ở vùng Sumer cuối cùng phát triển lên thành
một đế quốc, đế quốc Ua, tồn tại trên một trăm năm
(2118-2007 trước công nguyên). Khoảng năm 2007 trước công nguyên,
người Amorites ở phía tây và người Ê-lam ở phía đông lại xâm
nhập Lưỡng Hà, lật đổ nền thống trị của đế quốc Ua.
Dưới
sức tấn công của cả hai mặt, các thành bang Sumer mất hết độc
lập chính trị của mình. Từ đó về sau, người Sumer không khôi
phục lại độp lập của họ được nữa, dần dần đi đến
chỗ suy vong. Tuy vậy, nền văn hóa rực rỡ của người Sumer ảnh
hưởng sâu sắc đến nền văn hóa của các bộ tộc khác ở vùng
Trung Cạn Ðông; kỷ thuật canh tác của họ, lịch pháp, số học,
văn tự hình góc nhọn, kiến trúc và công nghệ của họ đều là
những di sản vô cùng quí báu của nền văn hóa cổ đại ở lưu
vực Lưỡng-Hà.
3.Vương
quốc Babylone và thời đại Hammourabi.
Lúc
đế quốc Ua của người Sumer đang trên đà suy yếu, thì một bộ
tộc Sê-mit sống ở miền Xi-ri, gọi là người Amorites thừa cơ xâm
nhập lưu vực Lưỡng-hà, lật đổ đế quốc Ua.
Khoảng
năm 1894 trước công nguyên, người Amorites chọn thành Babylone ở
trên bờ sông Euphrate làm thủ đô, thành lập lên ở đấy một vương
quốc chiếm hữu nô lệ.
Vương
quốc Babylone hưng thịnh nhất và mở mang lãnh thổ rộng lớn
nhất là thời vua Hammourabi.Dưới thời ông ta trị vì (1792-1750 trước
công nguyên).
Ðể
cũng cố nền thống trị của giai cấp quí tộc chủ nô, Hammourabi
đật một bộ luật gọi là một luật Hammourabi gồm có 282 điều
khoản.
Nhìn
chung, xã hội chiếm hữu nô lệ Babylone có những đặc điểm
nổi bật dưới đây.Sự phát triển của chế độ tư hữu về
ruộng đất và của quan hệ chiếm hữu nô lệ. Tuy nhiên sự phát
triển của chế độ tư hữu vẫn còn bị nhiều hạn chế và
chế độ nô lệ cũng còn mang nặng tính chất gia trưởng.
Nền
kinh tế về cơ bản vẫn là nền kinh tế tự nhiên. Chế độ chính
trị chuyên chế trung ương tập quyền. Nhà vua Babylone tập trung
trong tay vương quyền lẫn thần quyền. Vua là kẻ chỉ huy tối cao
về các mặt quân sự, chính trị, kinh tế, đồng thời cũng là tăng
lữ tối cao, thay mặt thần, để trị dân.
4.
Ðế quốc Assyrie.
Thành
bang Assyrie nằm ở phía bắc Mesopotamie, ở đây đất đai không
được tốt lắm, khí hậu khô khan, nhưng Assyrie có mục trường
rộng lớn, có đá vôi, có gỗ quý dùng làm vật liệu xây dựng
rất tốt và nhất là có một vùng khoáng sản tiếp liền với khu
vực mỏ đồng và mỏ sắc ở miền Ðông bắc Tiểu Á. Họ sống
chủ yếu về nghề chăn nuôi và săn bắn, nghề nông không phát đạt
lắm.
Về
mặt văn hóa, người Assyrie chịu ảnh hưởng nhiều nhất của người
Sumer, Akkad, sau định cư ở phía bắc lưu vực Lưỡng Hà, họ
học liền ở người Sumer lịch pháp, kỹ thuật sản xuất nông
nghiệp và thủ công nghiệp. Người Assyrie là một bộ tộc phát
triển sau, nên lúc này sự phân hóa giai cấp trong nội bộ chưa
kịch liệt lắm, trong khi đó thì các nước láng giềng đang ngày
càng suy yếu vì mâu thuẫn gây gắt trong nội bộ xã hội chiếm
hữu nô lệ, đó là những nguyên nhân chính đã giúp cho người
Assyrie tự cường lên nhanh chống.
Ðế
quốc Assyrie là đế quốc đầu tiên có lãnh thổ rộng lớn
nhất, cũng là đế quốc đầu tiên đã thâu tốn nhiều trung tâm
văn hóa cổ đại như: Lưỡng Hà, I-ran, xi-ri, Tiểu Á, Pa-le-xtin,
Ai cập dưới một chính quyền thống nhất. Ðế quốc Assyrie là
một đế quốc rộng lớn, nhưng nó chỉ là một tổ chức liên
minh quân sự và hành chính to lớn, nó không có một cơ sở kinh
tế thống nhất vững chắc. Chiến tranh xâm lược liên miên đã làm
cho nông dân công xã và dân chăn nuôi giảm sút nhanh chống. Mâu
thuẫn trong nội bộ xã hội chiếm hữu nô lệ luôn luôn tiêu hao
lực lượng kinh tế và lực lượng quân sự của đế quốc
Assyrie. Chính lúc này lại có rất nhiều bộ lạc du mục chung
quanh xâm nhập vào Lưỡng Hà. Năm 612, liên quân của người Can-đê
và người Me-đơ đánh chiếm kinh đô Ni-ni-vơ: đế quốc Assyrie, xây
dựng bằng vũ lực, bị diệt vong từ đó.
D.
ẤN ÐỘ |
I/ NỀN VĂN MINH SÔNG ẤN VÀ THỜI ÐẠI VÊ-ÐA |
1. Ðiều kiện thiên nhiên và cư dân ở Ấn độ thời cổ.
Ấn
độ là một đảo lớn nằm ở miền Nam châu Á, hai mặt Ðông Nam
và Tây Nam ngó ra Ấn độ dương, phía Bắc có dãy núi Hi-ma-lay-a hùng
vĩ án ngữ, khiến cho đất nước Ấn độ ngày xưa hầu như cách
biệt với thới giới bên ngoài. Các con sông Ấn (Indus), sông
hằng (Gange), sông Bramapoutre phát nguyên từ miền Hi-ma-lay-a, Tây
tạng mang nước nguồn về tưới cho cả một vùng đồng bằng
rộng lớn ở miền Bắc Ấn độ, tạo điều kiện rất thuận
lợi cho sự phát triển của nghề nông
Ấn
độ là một nước đất rộng, người đông. Thành phần chủng
tộc và ngôn ngữ của cư dân ở Ấn đô hết sức phức tạp.
Nhiều học giả cho rằng người Ðravida là dân bản địa xưa
nhất, về sau, những bộ lạc người Ariel thuộc ngữ hệ Ấn, Âu
Trung Á xâm nhập Ấn độ rồi làm chủ bán đảo này, dồn người
Ðravida về phía Nam.
Tiếp
theo sau là người Hy lạp, người Hung nô, người A rập, người Mông
cổ ... lần lược từ phía Tây bắc kéo tới chung sống lâu đời
với những giống người đến trước, tạo thành một sự hỗn
hợp chủng tộc hết sức phức tạp trong lịch sử Ấn độ.
2.
Nền văn minh sông Ấn hay văn minh Harappa và Mohan-jo-Daro.
Cuối
thiên nhiên kỷ IV trước công nguyên, ở Ấn độ đã bất đầu
sử dụng công cụ bằng kim loại.
Những
cuộc khai quật khảo cổ ở vùng Hrappa và Mohan-jo, Daro chứng minh
rằng từ giữa thiên niên kỷ III đến đầu thiên niên kỷ II trước
công nguyên, ở lưu vực sông Ấn, đã xuất hiện một nền văn hóa
rực rỡ. Những di tích văn hóa tìm được ở các vùng khai quật
chứng tỏ xã hội Ấn độ đã phân chia thành giai cấp và dân cư
lúc đó đã biết chế tác đồ dùng bằng đồng, tuy rằng đồ đá
hãy còn được dùng khá phổ biến. Ngành sản xuất kinh tế chủ
yếu là nông nghiệp, dùng lưỡi cày bằng đá.
Trong
nền văn hóa Hrappa, nghệ thuật kiến trúc đã đạt tới trình độ
khá cao. Những di chỉ đó cho biết rằng thành phố đã được xây
dựng theo một quy hoạch thống nhất, chặt chẽ.
Nền
văn minh tối cổ này của Ấn Ðộ đứng về mặt thời gian mà nói,
cũng không ra đời chậm lắm so với các nền văn minh cổ Ai Cập
và Lưỡng Hà. Về mặt nào đó mà nói, đời sống văn hóa của
người Dravida lại còn cao hơn cả người Ai Cập và người Lưỡng
Ha
3.
Cuộc chinh phục miền Bắc Ấn độ của người Ariel-Thời đại Vê-đa.
Vào
khoảng trên dưới 2000 năm trước công nguyên, một số bộ lạc
thuộc chủng tộc người Ariel bắt đầu xâm nhập miền tây bắc
Ấn độ. Người Ariel hồi đó đang sống dưới chế độ công xã
thị tộc mạt kỳ, gồm nhiều bộ lạc du mục. Trước sự xâm lăng
của người Ariel, một bộ phận người Draviđa đã phải lánh đến
vùng rừng núi phía nam mà sống, một bộ phận khác ở lại thì
hầu hết bị người Ariel biến thành nô lệ. Sau một thời kỳ
sống chung lâu dài, người chinh phục và kẻ bị chinh phục đã đồng
hóa với nhau. Do tiếp thu nền văn hoá cũ của người Draviđa, do
học tập được kỹ thuật canh tác
của họ, do chiếm cứ được những vùng đất đai màu mỡ,
người Ariel bắt đầu chuyển từ đời sống chăn nuôi du mục
sang đời sống nông nghiệp định cư. Chế độ công xã nông thôn
xuất hiện cùng với sự thiên di của người Ariel sang phía đông,
trung tâm văn minh Ấn Ðô cổ đại di chuyển từ lưu vực sông
Ấn sang lưu vực Sông Hăöng.
Trong
công xã, kinh tế tiểu nông kết hợp chặt chẻ với thủ công nghiệp gia đình. Mỗi công xã đều tự cấp
tự túc, quan hệ trao đổi giữa các công xã rất yếu ớt, lỏng
lẽo. Ðó là đặc điểm của nền kinh tế tự nhiên Ấn Ðộ, làm
trì trệ sự phát triển của xã hội Ấn độ. Ở đây, tàn dự
chế độ công xã tồn tại mãi đến giữa thế kỷ XIX mới bị
thủ tiêu.
Trong
thời kỳ Vê-đa, chế độ nô lệ ở Ấn độ chưa được phát
triển lắm. Theo bộ luật Narađa, có trên 15 hạng người nô lệ
do 5 nguồn gốc chính sau đây mà ra:
-
Nô lệ tù binh.
-
Nô lệ vi phạm tội.
-
Nô lệ vì nợ,
-
Nô lệ xuất thân là dân tự do Ariel bị bần cùng hóa
-
Nô lệ do cha mẹ là nô lệ đẻ ra.
4.
Chế độ đẳng cấp Varna và
cơ sở tôn giáo của nó: đạo Bà- la -môn
Ở thời kỳ Vê-đa, tại Ấn Ðộ đã xuất hiện một chế
đô đẳng cấp đặc biệt, gọi là chế Varna cũng gọi là chế độ
" chủng tính" ở một số
Chế
Ðộ "Varna" là một chế độ xã hội dựa trên sự phân
biệt về chủng tộc, về dòng họ, về tôn giáo hình thành trong
quá trình người Ariel chinh phục và thống trị người Draviđa
Theo
bộ phận Ma-nu, người ta phân biệt rất nhiều chủng tính, tựu
trung có thể quy thành bốn chủng tính lớn, sắp xếp theo thứ
tự trên dưới như sau:
1.
Chủng tính"Bơ -ra-man" tức là bà la môn, gồm tầng lớp tăng
lữ
của
đạo bà - la - môn.
2.
Chủng tính Kcatrya gồm tầng lớp quí tộc, vương công và vũ sĩ.
3.
Chủng tính Vaicya gồm đại đa số bình dân
người Ariel làm nghề nông,
nghề thủ công và nghề buôn.
4. Chủng tính Cudra gồm đại bộ phận những thổ dân bị
người
Ariel chinh phục và nô dịch, chủ yếu là người Ðra-vi-đa
không
được hưởng quyền lời gì, căn bản là những kẻ tôi
tớ đi làm
thuế,làm mướn.
Chế
độ đẳng cấp Varna dựa trên
cơ sở đạo Bà- la-môn. Thực chất của đạo này là một thứ tôn
giáo nhằm bào chửa cho tình trạng bất bình đẳng trong xã hội.
II.
VƯƠNG QUỐC MA-GA-ÐA VÀ SỰ THÀNH LẬPVƯƠNG TRIỀU MÔ-RIA |
1.
Vương quốc Ma-ga-đa và sự xuất hiện đạo phật.
Vào
khỏang nửa đầu thiên niên kỷ VI trước công nguyên, miền Bắc
Ấn Ðộ chưa phải là một quốc gia thống nhất, tồn tại mười
sáu quốc gia chiếm hữu nô lệ, trong số đó
nổi bật lên 2 vương quốc lớn nhât là Magadha và Kosala.
Về
sau, Magadha nhanh chóng phát triển thành một quốc gia cường
thịnh, đã đánh bại nước Kosala mở
rộng lãnh thổ Magadha.
Vương
quốc Magadha trở thành một quốc gia thống nhất miền Bắc Ấn độ,
lãnh thổ bao gồm lưu vực của hai con sông Hằng và Sông Ấn. Từ
thế kỷ VI trước công nguyên
trở đi, do kinh tế phát triển, do áp bức, bóc lột tăng cường,
mâu thuẫn giai cấp trong xã hội Magadha ngày càng sâu sắc. Mâu
thuẫn xã hội đó được phản ảnh một phần nào qua phong trào
đấu tranh rộng lớn chống chế độ đẳng cấp Vac-na và
đạo Ba-la-môn.
Vào
thời kỳ đó ( khoảng thế kỷ thứ VI trước công nguyên) đạo
Phật đã ra đời ở Ấn Ðộ. Người sáng lập ra đạo phật là
siddharta Gautama, hiệu là Cakya Mu-ni tức thích-ca Mâu-ni, con vua nước
Kapilavastu ở miền rừng núi phí nam Hi-ma-lay-a,
sinh vào khoảng 563, mất năm 483 trước công nguyên.
Theo
kinh phật truyền lại thì Gô-ta-ma năm 29 đã rời bỏ cung điện
của vua cha ra đi tìm con đường giải thoát và từ đó được
gọi là Bouddha tức phật có nghĩa là " người giác ngộ".
Sau đó ông đi khắp miền trung du sông Hằng trong hơn 40 năm để
truyền bá giáo lý mới của ông, mà về sau người ta gọi là đạo
phật Bouddisme.
Ngay
từ khi đạo phật mới ra đời, số người theo đạo tăng lên
rất nhanh, đặc biệt là trong quần chúng dân nghèo bị áp bức.
Ðạo Phật được hoan nghênh vì nó tuyên truyền sự "bình đẳng
giữa các chúng sinh", Kỳ thật là sự bình đẳng về tinh
thần giữa những người dân tự do mà thôi.
Ðạo
Phật là một thứ giáo lý tiêu cực, xa rời thực tế cuộc
sống, phủ định đấu tranh giai cấp, do đó mà nó rất hợp với
tầng lớp Xa-tơ ri-a đang nắm chính quyền thời bấy giờ.
2.
Sự xâm nhập của người Ba tư và người Hy lạp - Ma-xê-đô-ni.
Từ
cuối thế kỷ thứ VI trước công nguyên, vùng đất đai ở phía tây
con sông Ấn đã bị người Ba Tư chinh phục. Vua Ba tư là Darius
chinh phục. Do sự xâm nhập của người Ba tư ở miền Tây Bắc
Âún Ðộ, mà văn hóa Ba tư là văn hóa Ấn Ðộ càng chịu ảnh hưởng
lẫn nhau rõ rệt. Từ giữa thế kỷ IV trước công nguyên
trở đi, nước Ma-xê-đô-ni ở bán đảo Hy Lạp đã trở thành
một quốc gia hùng mạnh nhất ở phương Tây. Năm 334, vua Ma-xê-đô-ni
là Alexandre mang đại quan sang đánh Ba tư, chiếm được miền
tiểu Á, Pa-le-xtin và Ai cập. sau khi đã tiêu diệt hoàn toàn quân
đội của vua Ðarius, A-lêc-xăng chiếm cứ vùng Lưỡng Hà và toàn
bộ Cao nguyên I-ran. Năm 327, quân đội cùa A-lêc-xăng, xâm nhập lưu
vực sông Ấn chiếm vương quốc Por.
Sau
khi đánh bại quân đội Por, quân xâm lược lại chiếm đánh
vương quốc Magađa. Trận giao chiến giữa quân Ma-xê-đô-ni và
quân Ma-ga-đa đã diễn ra vô cùng ác liệt. Quân của A-lêc-xăng không
thể vượt qua sông tiến lên được, Vì họ vấp phải sức
chống cự mãnh liệt của người Ma-ga-đa. Cuối cùng họ từ
chối không nghe theo lệnh tiến quân của A-lêc-xăng nữa. A-lêc-xăng
buộc phải lui quân.
Cuộc
đông chinh của A-lêc-xăng mang tính chất xâm lược rõ rệt nhưng
có một ý nghĩa lịch sử quan trọng. Văn hóa tiên tiến của người
Hy Lạp được truyền bá sang Ấn
Ðộ. Ngược lại, nền văn hóa độc đáo của Ấn độ cổ đại
cũng có ảnh hưởng lớn dối với sự phát triển của nền văn hóa
Hy lạp.
3.
Sự thành lập vương triều Mô-Ri-A.
Ðại bộ phận quân đội Ma-xê-đô-nirút khỏi miền Tây
bắc Ấn độ không được bao lâu, thì các bộ tộc Ấn độ ở
những vùng mà Ma-xê-đô-ni cho rằng
đã bình định xong, đều vùng dậy đấu tranh tự giải phóng.
Thủ lĩnh của phong trào giải phóng đó là Chandragupta, người sáng
lập ra Vương triều Mô-ri-a, một trong những vươn triều lớn
mạnh nhất của Âún độ cổ đại.
Theo
các sử liệu nói trên thì tình hình kinh tế của Ấn độ thời vương
triều Mô-ri-a đã phát triển thêm một bước. Ngoài những vùng
rừng rậm còn chiếm một phần đất đai khá lớn, những miền các
lưu vực các con sông lớn đều được được khai thác thành
những khu vực nông nghiệp trú phú.
Trên
cơ sở nông nghiệp và thủ công nghiệp thành thị phát triển, thương
nghiệp lúc này ở Ấn độ cũng phát đạt, đặc biệt ngành mậu
dịch đối ngoại. Ấn độ đã có những quan hệ mậu dịch với
Trung Quốc, Á Rập và các nước Trung Á, theo đường bộ lẫn đường
biển.
4.
Chế độ công xãû nông thôn ở ÂnÚ độ cổ đại
Ðặc
điểm quan trọng trong lịch sử phát triển của xã hội Ấn độ
cổ đại là sự phát triển chưa thành thục của những quan hệ
chiếm hữu nô lệ đó là tính chất kiên cố của tổ chức công
xã nông thôn ở ÂnÚ độ, một hình thái tổ chức kinh tế, xã
hội cơ bản của quần chúng dân tự do.
Ðặc
trưng của chế độ công xãnông thôn ở Ấn độ là sự kết
hợp chặt chẽ giữa nông nghiệp và thủ công nghiệp gia đình làm
cho công xã biến thành một đơn vị kinh tế độc lập. Hầu hết
sản phẩm làm ra đều nhằm phục vụ trực tiếp cho việc tiêu dùng
của công xã, mà không đem đi bán. Mỗi một công xã đều có
khả năng tự túc về đại bộ phận các tư liệu tiêu dùng, lương
thực cũng như sản phẩm thủ công, do đó liên hệ rất ít với công
xã kháchoặc với các thành thị. Ðiều đó đã làm cho những quan
hệ hàng hóa, tiền tệ phát triển rất chậm chạp trong nước.
Công
xã nông thôn Ấn Ðộ không phải là một đơn vị kinh tế độc
lập, mà còn là một đơn vị tổ chức xã hội, một đơn vị hiình
chính có quyền tự trị. Nhà nước hầu như không hề can thiệp vào
nội bộ của công xã, mà công xã cũng không hề quan tâm gì đến
vận mệnh của nhà nước.
III.
ÐẾ QUỐC MÔ-RI-ATHỜI ÐẠI ACOKA |
1.
Chế độ chính trị thời đương triều mô-ri-a.
Ngay
từ trước khi các quốc gia chiếm hữu nô lệ ở lưu vực sông
Hằng thống nhất tại thành quốc gia Ma-ga-đa rộng lớn dưới vương
triều Mô-ri-a, đại đa số các quốc gia đó thực hành nền quân
chủ chuyên chế theo kiểu phương Ðông. Dưới thời đế quốc Mô-ri-a,
chế độ chuyên chế đó lại càng phát triển cao hơn
2.
Thời đại Acoka - Sự truyền
bá đạo phật.
Thời
kỳ thịnh vượng nhất của đế quốc Mô-ri-a là tương đương
với thời thống trị của vua Acoka: 273-237 tr.c.n., cháu của
San-dra-gup-ta. Lịch sử gắng liền sự
hùng mạnh của đế quốc Mô-ri-a với tên tuổi của Acoka một
trong những ông vua nổi tiếng trong lịch sử Ấn Ðộ cổ đại. Có
hơn 30 bả khắc trên đá nói rõ tình hình đế quốc Mo-ri-a dưới
đời Acoka; đó là những chiếu chỉ, sắc lệnh của ông khắc trên
vách đá, trên côt trụ bằng đá trong các hang động, các chùa
chiền.
Dưới
đời AcoKa, đạo Phật đã được tôn làm quốc giáo. Nhà vua ra
sức truyền truyền bá đạo Phật ra nước ngoài. Ở thế kỷ
thứ III trước công nguyên, đạo Phật đã được truyền bá
rộng rãi ở Xây-lan, Miến-diện, Thái-lan, Mã- lai và In- đô- nê-xi-a.
Về
sau khoảng thế kỷ đầu của công nguyên, đất nước Ân độ
bị chia cắt thành nhiều công quốc phong kiến. Ðạo phật ở Ấn
Ðộ lúc này bị đạo Bà La Môn bài xích. Ðề thích ứng với điều
kiện lịch sử mới, đạo Bà La Môn từ đó dần dần cải biến
thành đạo Hindu tức Ấn Ðộ giáo. Ðạo phật ở Ấn độ dần
dần suy yếu, phải nhường địa vị ưu thế cho đạo Hindu. Nhưng
ở ngoài biên giới Ấn độ, tại các nước Ðông Á thì đạo
phật lại đang trong thời kỳ hưng thịnh.
3.
Sự suy vong của đế quốc Mô-ri-a
Mặc
dầu vua A-xô-ka có những cố gắng lớn để củng cố sự thống
nhất quốc gia, đế quốc Mô-ri-a trước sau vẫn không phải là
một quốc gia thống nhất vững chắc, mà là một quốc gia liên
hiệp nhiều công quốc và nhiều bộ lạc có trình độ phát
triển kinh tế, văn hóa rất chênh lệch nhau, không có liên hệ
kinh tế xã hội bền chặt.
Bởi
vậy, ngay sau khi vua A-xô-ka chết, năm 236 trước công nguyên, đế
quốc Mô-ri-a bắt đầu suy sụp. Ðến năm 187, vương triều mô-ri-a
bị lật đổ. Một vương triều mới, vương triều Shunga, ra đời
(187-73 trước công nguyên).
E.
TRUNG QUỐC |
I.
XÃ HỘI TRUNG QUỐC THỜI NGUYÊN THUỶ |
1.
Ðiều kiện thiên nhiên và cư dân ở Trung Quốc thời cổ.
Nước
Trung Quốc vĩ đại ngày nay, dất rộng người đông, về thời thượng
cổ, chỉ chiếm một dải dất tương đối hẹp, người thưa,
nằm ở vùng hạ lưu hai con sông Hoàng Hà và Trường Giang. Hai con
sông này đã giữ một vai trò trọng yếu trong đời sống của người
Trung Quốc từ thời xa xưa. Ðặc biệt là sông Hoàng Hà, nước lũ
dâng lên cao, nhiều lần làm thay đổi cả dòng sông, gây nên
thủy tai khủng khiếp.
Nhưng
mặt khác, đất phù sa do hai con sông bồi đắp thành một miền đồng
bằng rộng lớn, phì nhiêu, rất thuận lợi cho việc phát triển nông
nghiệp.
Căn
cứ vào kết quả các cuộc khai quật khảo cổ do giao sư Bùi Văn
Trung, tiến hành trong khoảng từ năm 1927 đến năm 1937, ở vùng
Chu-khẩu-điếm, phía tây Nam Bắc Kinh, người ta biết rằng độ
60 vạn năm về trước, trên lãnh thổ Trung Quốc đã có loài người
sinh sống và lao động. Ðó là giống người vượn Trung quốc
(sinanthropus), cũng còn gọi là người vượn Bắc kinh
2.
Những Truyền thuyết về Hoàng Ðế và Nghiêu, Thuấn, Vũ.
Vào
khoảng cách đây chừng năm hoặc sáu nghìn năm, tổ tiên người
Trung Quốc đã biết cải tiến công cụ lao động.
Người
ta đã phát hiện ra hai nền văn hòa quan trọng vào cuối thời đại
đồ đá mới, trên lưu vực Hoàng Hà, nền văn hóa Ngưỡng thiều
và nền văn hóa Long Sơn.
Hai
nền văn hóa trên phản ảnh được tình hình phát triển của
sức sản xuất, tình hình sinh hoạt vật chất của người Trung
Quốc sống ở giai đoạn cuối của xã hội thị tộc.
Những
truyền thuyết cổ đại Trung quốc về Tam hoàng, Ngũ đế có
nhiều ý nghĩa lịch sử đối với giai đoạn công xã thị tộc này.
Tục
truyền rằng Hoàng đế, tổ tiên lỗi lạc của nhân dân lưu vực
Hoàng Hà. Theo thuyết truyền, rất nhu\iều sáng chế, phát minh quan
trọng của Trung Quốc cổ đại đều quy vào Hoàng Ðế, như việc
làm nhà cửa, may quần áo, đóng xe, đóng thuyền, trồng dâu, nuôi
Tầm, dệt vải. Nuôi tầm lấy tơ là một cống hiến lớn lao
của nhân dân lao động Trung Quốc cho nền văn hóa thế giới.
Một phát minh quan trọng nữa ở thời Hoàng đế và chữ viết.
Sau
Hoàng đế, trải qua mấy đời, có ba vị thủ lĩnh kế tiếp nhau
đứng đầu liên minh bộ lạc: đó là Nghiêu, Thuấn, Vũ.
Thời
kỳ Nghiêu, Thuấn, Vũ là thời kỳ tan ra của xã hội thị tộc
ở Trung quốc
II. SỰ RA ÐỜI NHÀ NƯỚC CHIẾM HỮU NÔ LỆ TRUNG QUỐC. NHÀ HẠ - NHÀ THƯƠNG |
1.
Sự thành lập nhà Hạ. Sự hưng khởi nhà Thương
Nhà
Hạ thành lập vào khoảng thế kỷ XXI trước công nguyên. Nhà Hạ
mở đầu xã hội chiếm hữu nô lệ ở Trung Quốc.
Thế
kỷ XVII trước công nguyên, vua cuối cùng của nhà Hạ là Kiệt cùng
với bọn quý tộc nhà Hạ, vựa vào vũ lực, bạo ngược vô đạo,
bóc lột nhân dân rất tàn khốc.
Thời
bấy giờ, có bộ lạc Thương ở hạ lưu Hoàng Hà, dưới sự lãnh
đạo của người thủ lĩnh của minh là Thành Thang, đã dần dần
lớn mạnh lên, rồi lần lượt đánh bại các bộ lạc liên minh
với Hạ, sau đó lại tấn công vua Kiệt nhà Hạ.
Khoảng
thế kỹ XIV trước công nguyên, vua Thương là Bàn Canh dời đô đến đất Ân (thuộc tỉnh Hà Nam bây
giờ). Do đó về sau, nhà Thương vẫn còn gọi là nhà Ân Thương.
2.
Sinh hoạt kinh tê, xã hội, văn hoá đời Thường:
Khoảng
năm 1899, tại huyện An-Dương thuộc tỉnh Hà Nam ngày nay, người
ta đã tìm thấy rất nhiều mai rùa và xương thú có khắc chữ ở
di tích Ấn Khư, kinh đô của nhà Ân. Những bản ghichép đó gọi
là Văn Lư giáp cốt (có nghĩa là chữ khắc trên xương thú hoặc
mai rùa). Qua đó, người ta có thể phán đoán được một cách tương
đối chính xác những nét lớn về tình hình sinh hoạt xã hội đời
Ân - Thương.
Thời
Ân - Thương, nông nghiệp trở thành ngành sản xuất chủ yếu
trong xã hội.
Thời
bấy giờ, việc đúc đồ đồng thau đã đạt tới trình độ kỹ
thuật cao.
Người
ta đã thấy sinh hoạt bất bình đẳng giữa các giai cấp trong xã
hội chiếm hữu nô lệ thời Thương. Trong mộ của qui tộc, chôn
theo rất nhiều đồ tùy táng,, cả nô. Trong mộ nô lệ thì không
có gì vì người ta cho rằng nô lệ chết rồi cũng vẫn là nô
lệ, chỉ mang theo hai bàn tay trắng để làm việc cho chủ nô quý
tộc đã chết.
Người
thời Thường tin vào sức mạnh của tự nhiên, cho rằng nó có
thể đem lại đều lành, điều dữ cho họ. Quí tộc tế trời, đất
núi, sông, đặc biệt tế thần sông Hoàng Hà.
Tóm
lại, những di tích phát hiện ở Ân
Khư cho chúng ta biết rằng ở thời Ân - Thương, xã hội Trung
Quốc là một Xã hội chiếm hữu nô lệ tương đối phát triển và
nền văn hóa Ân - Thương, cũng gọi là văn hóa Ân Khư, là một nên
văn hóa đặt cơ sở vững chắt cho sự phát triển của xã hội
Trung quốc về sau này.
III.
TÂY CHU |
1.
Sự hình thành nhà Tây Chu
Ở
phía tây đồng bằng Hoa Bắc rộng lớn, thời bấy giờ tại lưu
vực sông Kinh và sông Vị thuộc tỉnh Thiểm-tây ngày nay, co bộ
tộc Chu đã sống lâu đời ở đây. Ðó là một vùng cao nguyên có
chất đất vàng phì nhiêu, rất thuận lợi cho tộc Chu phát triển
nghề nông của mình.
Trong
lúc bộ tộc Chu đang lớn mạnh không ngừng, thi mâu thuẫn trong
nội bộ nhà Ân - Thương ngày càng sâu sắc. Vua cuối cùng của nhà
Ân - Thương là Trụ Vương, một tên bạo quân nổi tiếng bóc
lột nhân dân rất tàn khốc.
Thủ
lỉnh người Chu là Chu Văn Vương được sự ủng hộ của bộ
tộc mình , thừa cơ nhà Thương suy yếu, phát triển thế lực về
phía đông đánh chiếm nhiều đấ đai của nhà Thương. Con của
Chu Văn Vương là Chu Vũ Vương tấn công kinh đô nhà Thương.
Diệt
xong nhà Thương, Chu vũ Vương đóng đô ở Hạo Kinh ( phía Tây thành
phố Tây An ngày nay), và dựng lên nhà Chu, trong lịch sử gọi là
Tây Chu.
2.
Sự thống trị của nhà Chu:
Sau
khi đông chinh thắng lợi, vua nhà Chu đã thực hành một số biện
pháp nhằm tăng cường nền thống trị của mình ở miền Ðông.
Trước hết, vua nhà Chu quyết định xây nhiều thành quách ở
miền Ðông để tăng cương sức khống chế đối với người Ân.
Nhà Chu cho xây dựng Lạc ấp (thuộc Hà Nam ngày nay) theo qui mô
lớn.
Ðể
củng cố nền thống trị của mình, hoà hoãn mâu thuẫn nội bộ,
vua nhà Chu đã phân phong cho anh em, họ hàng và công thần làm chư
hầu để họ dựng nước và trị dân ở các nơi, hình thành một
số chư hầu như nước Lỗ, nước Tấn, nước Yên, nước Tề...
là một chế độ thống trị dựa trên cơ sở quan hệ huyết
thống của dòng họ, gọi là chế độ tông pháp.
+
Về kinh tế: Thời Tây Chu tồn tại chế độ tỉnh điền. Chế độ
tỉnh điền là chế đô chiếm hữu và sử dụng ruộng đất đã
có từ trước, đến thời Tây chu mới được mở rộng. Ðồng
thời đó cũng là một chế độ nghĩa vụ ü quân sự.
+
Về xã hội: xã hội thời Chu những giai cấp bị áp bức bóc
lột là nô lệ và nông dân công xã.
Quý
tộc thời Tây Chu có đủ các đặc quyền, đặc lợi. Lập được
chiến công hay có công lao gì khác, thì họ thường được vua nhà
Chu hay chư hầu ban thưởng ruộng đất và nô lệ. Quý tộc bóc
lột nông dân công xã và và
nô lệ rất nặng nề.
3.
Sự suy vong của nhà Tây Chu
Ðến
đời Chu Lê Vương, mâu thuẫn trong nội bộ nhà Chu càng thêm sâu
sắc. Kết quả là năm 841 trước công nguyên nhân dân dưới sự lãnh
đạo của quý tộc tên là Công Bá Hòa, tấn công cung điện nhà
vua, đuổi Lê vương, cử ra một hôi nghị quí tộc tạm thời
chấp chính, thay thế vua. Trong lịch sử thời đó gọi là thời
"cộng hòa", tồn tại trong 14 năm (841-828 trước công nguyên).
Ðến
năm 827 trước công nguyên, sau khi Chu Lê Vương chết, con là Tuyên
vương khôi phục lại được ngôi vua thì cuộc đấu tranh trong
nội bộ nhà vua mới tạm dứt; nhưng chiến tranh lại xảy ra
giữa nhà Chu với các tộc ngoài biên cương phía Tây và phía
Bắc, chủ yếu là với các tộc, Nghiễm Doãn, Tây, Nhung, làm tiêu
hao mất nhiều nhân lực, vật lực trong nhân dân và làm cho mâu
thuẫn giai cấp trong nội bộ nhà Chu lại trở nên gay gắt.
Tình
hình chinh chiến đó làm cho sức sản xuất trong nước bị đình
đốn một cách nghiêm trọng; xã hội phân hóa một cách
kịch liệt, vàmâu thuẫn giai cấp trở nên gay
gắt.
Năm
781 trước công nguyên, quân Tây Nhung công hãm Hạo Kinh, thiêu hủy
kinh đô nhà Chu, bắt giết U Vương dưới chân núi Ly Sơn. Bọn thân
hầu lập thái tử Nghi Câu lên làm vua, hiệu là Chu Bình Vương
(771 trước công nguyên).
Căn
cứ đị Thiểm Tây của nhà Chu đã ở vào tình thế bị Nghiễm
Doãn và Tây nhung uy hiếp mạnh, nên năm sau, Chu Bình Vương phải
dời đô sang Ðông, đến Lạc- ấp (Lạc dương, tỉnh Hà-nam bây
giờ), đem căn cứ địa phía Tây tặng cho một quý tộc, là Tần
Tướng Công.
Sau
khi nhà Chu dời đô sang Ðông thì sử gọi là Ðông Chu.
Từ
đó lịch sử Trung quốc bước vào thời đại mới: Thời Xuân
thu -Chiến quốc.
IV.
THỜI KỲ XUÂN THU - CHIÊN QUỐC |
THỜI
KỲ XUÂN THU (770-475 TRƯỚC CÔNG NGUYÊN)
Từ
khi Chu Bình Vương dời đô sang Lạc-ấp năm 770 cho đến năm 475 trước
công nguyên là thời kỳ Xuân Thu :
1.
Sự phát triển của sức sản xuất hiện chế độ tư hữu về
ruộng đất:
Từ
thời Xuân thu trở đi, công cụ sản xuất nói chung, nhất là nông
cụ, đều làm bằng sắt.. Việc sử dụng công cụ bằng đất
trong sản xuất nông nghiệp không những tạo điều kiện thuận
lợi mới cho việc khai khẩn đất hoang, mà tạo điều kiện mới
cho việc nâng cao năng suất lao động trong nông nghiệp. Do đó
dần dần người ta thấy không cần thiết chia ruộng đất theo định
kỳ, chế độ tỉnh điền dần dần tan rã. Chế độ tư hữu về
ruộng đất xuất hiện và ngày càng phát triển.
2.
Cục diện Ngũ bá thời Xuân Thu.
Ðến
thời Xuân thu, nhiều nước chư hầu mượn tiếng ủng hộ địa
vị tông chủ của nhà Chu, đề ra khẩu hiệu "tôn vương, bài
Dị" để mở rộng thế lực và đất đai, thay nhà Chu chiếm
lấy bá quyền. Vì thế các chư hầu gây chiến tranh thôn tính liên
miên. Mở đầu thời kỳ các nước lớn tranh nhau bá quyền. Các nước
ở miền Sơn -đông thì bị Tề thôn tính; các nước ở miền Tây-bắc
thì bị Tần thôn tính; các nước ở miền Giang, Hán, Hoài, thì
bị Sở thôn tính. Những nước chưa bị thôn tính cũng rất suy nhược,
nhưng chỉ vì chúng ở vào thế hoãn xung giữa các nước các nướcclớn
nên tạm thời giữ lại. Vì thế, nếu đầu thời Chu có vào
khoảng trên dưới một nghìn nước chư hầu, thì đến thời Xuân
thu chỉ còn lại hơn trăm nước, và tương đối lớn thì chỉ có
14 nước: Tần, Tấn, Tề, Sở, Lỗ, Vệ, Yên, Tào, Tống, Trần, Thái,
Trịnh, Ngô, Việt, trong đó lớn mạnh nhất là Tề, Tấn, Tần,
ở, Tống, về sau có Ngô và Việt.
3.
Ðời sống của nhân dân.
Thời
kỳ Xuân-thu, các nước lớn không ngừng gây chiến tranh cướp đoạt
các nước nhỏ. Ðể thỏa mản tham vọng các nước lớn dùng phương
pháp "triều sính" và "minh hội". "Triều sính"
là nước lớn cưỡng bức nước nhỏ phải cống nạp sản vật
cho mình. "Minh hội" là các nước lớn hội nghị với nhau
dể bàn cách giải quyết vấn đề cống nạp của các nước
nhỏ.
Lúc
bấy giơ,ì nhân dân nghèo khổ, đói kém, buộc phải vay nợ của
bọn quý tộc, nhà giàu cho vay nặng lãi, nên đời sống rơi vào
cảnh cùng cực. Tình hình nước Tề,"tam lão (thường dân)chết
đói chết rét"; tình hình nước Tấn, "thấy chết đói đầy
đường". Tấn, tề là những nước lớn mà nhân dân còn như
thế thì tình cảnh ở các nước nhỏ lại càng bi thảm biết dường
nào!
THỜI
CHIẾN QUỐC (475-221 TRƯỚC CÔNG NGUYÊN)
1.
Sự Phát triển kinh tế thời chiến quốc.
Trong
thời chiến Quốc, ngoài cuộc đấu tranh thường xuyên xảy ra
giữa các nước, trong từng nước cũng luôn xảy ra những cuộc đấu
tranh giữa các bọn quý tộc với nhau để tranh giành đất đai và
quyền thống trị nhân dân. Ở nước Tấn, năm 403 trước công
nguyên, có ba dòng họ lớn là
Hàn, Triều, Ngụy chia nhau đất nước, rồi không bao lâu phế
truất vua Tấn. Lúc đó Trung Quốc đã bước vào thời kỳ Chiến
Quốc. Bấy giờ chỉ còn lại bảy nước lớn và một số ít nước
nhỏ. Trong số bảy nước lớn, thì Tề, Sở, Yên, Tần, đã có
từ thời Xuân Thu; Hàn, Triệu, Ngụy, là những nước mới tách ra
từ nước Tấn. Bảy nước đó tạo thành cục diện Thất hùng
thời Chiến quốc.
Thời
Chiến quốc, Trung Quốc có những biến đổi lớn lao hơn về mặt
kinh tế. Ðặc biệt, nghề luyện sắt và kỹ thuật luyện sắt phát
phát triển cao hơn, và đồ dùng bằng sắt được phổ biến
rộng rãi hơn so với thời Xuân thu.
Ðể
đáp ứng nhu cầu phát triển thương nghiệp, các thành thị lớn
đều tự chế ra tiền tiền tệ kim loại đã xuất hiện thời Xuân
thu, đến thời Chiến quốc đã thịnh hành. Những
thương nhân lớn có thế lực
về kinh tế, thường có nhiều tham vọng chính trị. Ví như
nhà buôn lớn Lã bất Vi đã tung của cải ra để thao túng chiïnh
quyền nưới Tần, hay như Mạnh Thường Quân, Quý tộc nước Tề,
làm nghề cho vay nặng lãi, đã đưa vào thế lực tiền tài để
củng cố quyền chình trị của mình.
Thời
Chiến quốc,tuy sản xuất nông
nghiệp bị chiến tranh phá hoại rất nghiêm trọng, nhưng nhờ
việc sử dụng phổ biến nông cụ bằng sắt nên nói chung, công tác
thủy lợi và việc canh tác nông nghiệp ở các nước đều có phát
triển trong chừng mực nhất định.
2.
Những biến đổi lớn trong thời Chiến quốc:
Thời
Chiến quốc, chiến tranh còn nhiều hơn, quy mô lớn hơn và tàn
khốc hơn thời Xuân thu.
Hồi
ấy kẻ sĩ là tầng lớp hoạt động sôi nổi nhất về chính
trị. Tầng lớp sĩ có tri thức văn hóa, có kinh nghiệm đấu tranh
chính trị và thủ đoạn chính trị nhân dân hoặc có tài thuyết
khách và tài thao lược nên vua chúa và quý tộc vào thời bấy
giờ đã dời họ về làm quan lại, tướng tá,. Mưu sĩ hay
"thực khách".
Do
sự phát triển của sức sản xuất, sự phát triển của kinh tế
hàng hóa, do chiến tranh loạn lạc xảy ra liên miên, tổ chức công
xã nông thôn (chế độ tỉnh điền) bị phá hoại. Trong thôn xã có
sự phân hóa giai cấp mạnh mẽ, một số nhỏ nông dân giàu có
trở thành địa chủ, phú nông, đa số nông dân mất ruộng đất,
phải đi cấy rẽ, cày thuê, trở thành tá điền, cố nông. Quan
hệ sản xuất phong kiến nông nô xuất hiện và dần dần chiếm
ưu thế trong nông nghiệp. Nô lệ từ nay thu hẹp trong sản xuất
thủ công, hầm mỏ và phục vụ trong nhà.
Thời
Chiến quốc những sự biến đổi lớn lao về kinh tế, xã hội và
chính trị nói trên được phản ảnh trong phong trào "biến pháp",
tức là phong trào cải cách được tiến hành ở nhiều nước.
3.
Cải cách của Thương Ưởng và hưng thịnh của nước Tần. Nhà
Tần thống nhất Trung Quốc.
Trong
Thất hùng thời Chiến Quốc, Tần là một nước tương đối lạc
hậu. Ðến năm 362 trước công nguyên, Tần Hiếu Công lên ngôi, dùng
Thương Ưởng, một nhà chính trị có tài, làm Tể tướng để
thực hành cải cách, tích cực làm cho nước giàu, dân mạnh, mưu
đồ cạnh tranh với 6 nước miền Ðông.
Cải
cách Thương Ưởng bị quý tộc nhà Tần phản đối dữ dội. Do
Tần Hiếu Công thẳng tay đàn áp mọi sự phản kháng, cải cách
Thương Ưởng mới được tiến hành thuận lợi. Cải cách của Thương
Ưởng đã đặt cơ sở vật chất cho nước Tần thống nhất Trung
Quốc.
Sự
cường thịnh của nước Tần ngày càng uy hiếp dữ dội 6 nước
miền Ðông.
Năm
246, trước công nguyên, vua Tần là Doanh Chính lên ngôi. Bây giờ lãnh
thổ của nước Tần đã rộng lớn, Tần tự thấy đã có đầy
đủ lực lượng để thực hiện âm mưu chinh phục 6 nước. Chỉ
trong vòng 10 năm từ năm 230-221 trước công nguyên -
nước Tầnnđã lần lượt tiêu diệt 6 nước: Hàn, Triệu,
Ngụy, Sở, Yên và Tề, thống nhất lãnh thổ Trung Quốc, chấm
dứt tình trạng hỗn chiến lâu dài thời Xuân thu - Chiến quốc
lập ra đế quốc Tần, đế quốc thống nhất đầu tiên xuất
hiện trong lịch sử Trung quốc.
Việc
nhà Tần thống nhất Trung Quốc là một việc phù hợp với yêu
cầu phát triển của xã hội thời bấy giờ, bởi gì chỉ có
thống nhất đất nước mới có thể chấm dứt tình trạng hỗn
chiến lâu dài, mới có đủ sức mạnh chóng nội xâm, mới tạo
điều kiện cho việc mở mang và thống nhất quản lý công trình
thủy lợi nhằm phát triển sản xuất nông nghiệp và công thương
nghiệp trên qui mô toàn quốc, đem lại đời sống hòa bình, yên
vui cho nhân dân.